x
Trang chủ » Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại

Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại

Bình chọn

Bài viết chia sẻ Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Luận văn 3C nhé.

triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại 

Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Luận văn 3C để được hỗ trợ viết bài

=>Dịch vụ viết tiểu luận thuê

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGEN TRONG NỀN TRIẾT HỌC MÁC 1- Cơ sở lý luận :

Phriđrích Hêgen ( 1770-1831) là nhà triết học – bác học vĩ đại của Đức, Ông là người hoàn chỉnh nền triết học duy tâm biện chứng cổ điển đức. Hêghen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức, Hêgen đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hêgen đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học. Gần 2 thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hêgen ra đời, song ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng lên. Bởi lẽ, như Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Hệ thống Hêgen bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển, trong lĩnh vực đó, một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc nhiên… Vì Hêgen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại… Nếu đi sâu hơn nữa vào trong toà nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật qúy giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng… Nói chung, với Hêgen, triết học đã đi đến điểm tận cùng, một mặt vì trong hệ thống của ông, ông đã tổng kết một cách hết sức hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học và mặt khác, vì Hêgen, dù không có ý thức, cũng đã chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cái mớ bòng bong những hệ thống triết học, nhân loại đã lập nên biết bao chiến công hiển hách kể từ ngày Hêgen trở về cõi vĩnh hằng. song nó cũng đã phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Một trong các nguyên nhân gây nên những tôn thất ấy là do chúng ta đã hành động mà thiếu một tư duy tỉnh táo và trước hết là thiếu một tư duy mang đậm sắc thái nhân văn – tư duy triết học, tư duy luôn đặt con người, số phận và khát vọng về tự do của nó lên hàng đầu. Điều đó cho thấy, nhân loại không thể sống thiếu triết học với bản chất nhân đạo vốn có của nó. Và hơn ai hết, chính Hêgen là nhà triết học đầu tiên không những đã ý thức được và nói rõ bản chất nhân đạo ấy của triết học, mà còn luận chứng cho nó một cách sâu sắc và khoa học. (Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại)

1.2 Vai trò của của phép biện chứng duy tâm của Hêgen trong nền triết học

1.2.1 Hạt nhân duy lý trong biện chứng pháp Hêgen

Marx lấy lại của Hêgen phương pháp biện chứng, cải biến nó từ một phương pháp biện chứng duy tâm thành phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Sở dĩ Marx thực hiện được một cuộc biến chất như vậy chính là vì trong biện chứng pháp của Hêgen đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt nhân duy lý, tức là cái phương pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến chuyển theo quá trình phát triển mâu thuẫn. Hêgen đã vận dụng phương pháp nêu mâu thuẫn đó một cách lộn ngược, chân cho lên trên, đầu để xuống dưới; lẽ ra phải thấy rằng do mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào đó mới phát sinh ra tinh thần, thì Hêgen lại cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động của tinh thần.

Cái hạt nhân duy lý nói trên ở đâu mà ra? Tại sao chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen lại nắm được cơ sở chân lý đó? Muốn hiểu được điểm này thì cần phải xét đến nguồn gốc lịch sử của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen.

1.2.2 Nguồn gốc lịch sử chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen

Biện chứng pháp duy tâm của Hêgen là kết quả của quá trình xây dựng phương pháp biện chứng trong triết học Đức từ Kant; quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản Đức. Ưu điểm lớn nhất của Kant là đã đề cao được vai trò lao động sáng tạo ra thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh thần. Thế giới của Kant là thế giới của tư sản, thế giới trao đổi hàng hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những vật làm ra chủ yếu là để sử dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa phương nhỏ hẹp, với quan niệm ban ơn. Với kinh tế tư sản, quan hệ chính trong xã hội là quan hệ trao đổi hàng hóa trên cơ sở bình đẳng – thực ra bình đẳng ở đây chỉ là hình thức, chỉ để che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong – hàng hóa là sản sinh ra trong một quá trình sản xuất của máy móc, có tổ chức, duy lý. Như vậy là tính chất lao động sáng tạo đã được thực hiện với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin rằng thế giới của loài người – cái thế giới hàng hóa – là do con người tạo ra. (Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại)

Nhưng vật chất mà tư sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chưa phải là vật chất thực sự lao động tức là con người lao động. Giai cấp tư sản chỉ giữ lại phần lao động trí óc, lao động tổ chức sản xuất và tính toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ phần lao động thực sự tức là con người sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính chất hạn chế của tư tưởng Kant khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình hiểu biết và xây dựng thế giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt động của tinh thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được tính chất khách quan.

Trong bản đề án về Feuerbach gồm 11 điểm, Marx viết rằng trong chủ nghĩa duy vật trước kia người ta chỉ nắm được vật chất về phần tĩnh của nó, tức là trong phạm vi nó được phản ánh một cách thụ động vào trong giác quan của con người. Còn phần hoạt động thì chủ nghĩa duy vật cũ chưa nắm được. Vì vậy nó chỉ được đề cao trong phạm (Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại)

vi tinh thần, duy tâm. Nhưng tương đối với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, việc đề cao này cũng đã là một bước tiến bộ. Vì lao động tinh thần được nêu lên đó cũng phản ánh được phần nào phương thức sản xuất mới, và thực ra nó cũng bắt nguồn từ lao động thực sự.

Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được một khái niệm về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử, tức là quá trình lao động xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân duy lý.

Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình thức kỹ thuật của phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế giới mà ta nhận thức được là do sự liên kết những cảm giác theo quy luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản ánh tính chất sản xuất hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ là hình thức kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Kant mới phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.

Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn toàn cái thế giới mới, Fichte [2] đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Kant. Fichte nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.

Fichte đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng phương pháp biện chứng. Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động sáng tạo và thế giới được sáng tạo, giữa cái «tôi» và cái «không phải là tôi». Tôi chỉ là một vật thể trong thế giới tự nhiên và thế giới đó ảnh hưởng đến tôi. Nhưng mặt khác, cái chủ quan của tôi đã đặt ra: tôi là một vật thể. Hai mặt đó đã được Fichte biểu diễn trong hai mệnh đề: về quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi quy định); và trên quan hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy định).

Phương pháp mâu thuẫn này mới được sử dụng trong phạm vi chủ quan, cái khách quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan. Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi đặt ra cái quan hệ đó – cái tôi vẫn là tuyệt đối.

Triết học của Hêgen vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện chứng, tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu thuẫn. Phương pháp của Hêgen phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, cho là trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá trình đó một cách có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hêgen lại nói rằng quá trình phát triển vật chất là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hêgen chỉ trông thấy hiện tượng ở bên trên, nên cho rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề chung của Hegel phản ánh một chân lý: đó là con người sáng tạo thế giới lịch sử. Nhưng con người đó chỉ được quan niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con người lao động thực sự. Hạt nhân duy lý trong phương pháp biện chứng của Hêgen là ở chỗ đó. (Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại)

CHƯƠNG II

NỘI DUNG CỦA TRIẾT HỌC HÊGEN

1. Hiện tượng luận của tinh thần

2. Luận lý học.

Cuốn trên trình bày lý thuyết về những hiện tượng của tinh thần và cuốn dưới nói về hệ thống phạm trù. Nhưng phạm trù này không chỉ là những khái niệm trừu tượng như của Kant mà bao gồm tất cả nội dung của thực tế khách quan. Luận lý của Hegen không phải là hình thức mà bao gồm tất cả cái gì có thể hiểu biết được và trình bày theo quá trình biện chứng của nó, nhưng trước khi đi đến trình độ đó, phải thanh toán những hình thái ý thức còn phân biệt thực tế khách quan và khái niệm, chưa thực hiện lý luận triết học. Hêgen phê phán những chủ nghĩa triết học trước bằng cách coi những hình thái ý thức không phải là lý luận triết học như ông ta quan niệm (ví dụ: cảm giác, tức là cơ sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng thế nào và chứng minh rằng mỗi hình thái ấy có một quá trình biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt buộc phải chuyển lên một mức cao hơn và cứ như thế đi đến hình thái triết học của Hêgen.

Trong cuốn Hiện tượng luận của tinh thần (Phenomeno- logie des Geistes), Hêgen phê phán mọi tư tưởng triết học trước đó, qua mọi hình thái ý thức theo quá trình biện chứng của nó cho đến luận lý học của Hêgen, tức là biện chứng pháp duy tâm mà Hêgen quan niệm. (Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại)

2.1 Ý THỨC CẢM GIÁC 

Ý thức cảm giác là cái ý thức nhằm cái trước mắt: cái này, ở đây, bây giờ. Theo ý tứ của nó thì nó nắm được thực tại tuyệt đối. Thường những chủ nghĩa chống triết học duy tâm dựa vào cái mà tôi nắm ở đây, bây giờ, để mà phê phán những lý luận cao siêu của các triết gia. Chúng ta phân tích nội dung thực tế của cái ý thức cảm giác ấy.

2.1.2 Phân tích đối tượng của ý thức cảm giác:

Cái này, ở đây, bây giờ là cái gì? có nhắc đến thế giới không?

Xét theo nội dung thì nó luôn luôn biến chuyển vì thế «tôi» không nắm được gì hết. Thực tế, ta chỉ nắm được cái đại thể: lúc nào cũng là lúc bấy giờ, chỗ nào cũng là ở đây, cái gì cũng là cái này. Vậy ta không nắm được cái cá thể. Chủ nghĩa cảm giác có thể trả lời: Đối tượng biến chuyển luôn luôn, nhưng vẫn là tôi nắm nó.

2 .1.3 Xét cái tôi ấy là gì?

Tôi nhằm cái này. Cái tôi nhằm như vậy tưởng là vững chắc, nhưng bên cạnh có người khác cũng nhằm cái này, vì ai cũng là tôi cả nên tôi ấy vẫn là đại thể. Cho nên ý thức cảm giác cũng không căn cứ được vào cái tôi cá thể.

2.1.4 Quan hệ giữa chủ quan và khách quan

Chủ quan cũng như khách quan không phải là cá thể. Vậy quan hệ giữa chủ quan và khách quan có phải là cá biệt không?

Phân tích quan hệ ấy trong cảm giác thì chúng ta chỉ có thể định nghĩa bằng cái thái độ: chỉ cái này, bây giờ, ở đây. Khi tôi chỉ cái này ở đây, tức là tôi đặt đối tượng trong không gian, tôi phải nắm nhiều cái ở đây. Vậy tôi cũng chỉ nắm cái đại thể. Khi tôi chỉ cái bây giờ, vì một buổi chiều có mấy giờ, mỗi giờ nhiều phút, v. v… Vậy quan hệ đây giữa chủ quan và khách quan vẫn phải nắm một đại thể.

Kết luận là ý thức cảm giác tưởng là nắm được một cá biệt rất là vững chắc. Nhưng thực tế nó nhằm cái cá biệt, nhưng nó không nắm được cái mà nó phải nắm là cái đại thể. Vậy tất cả những lập luận dựa vào cảm giác – chủ nghĩa kinh nghiệm – chống lại chủ nghĩa vận dụng lý luận là vô giá trị. Vậy thực tế khách quan không do kinh nghiệm trực tiếp mà nắm được, mà phải do khái niệm mới nắm được. Hegel phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm cũng là nhằm chủ nghĩa duy vật. (Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại)

3.TRI GIÁC

Ý thức cảm giác tự nó mâu thuẫn với nó. Tri giác là ý thức nắm đối tượng với thuộc tính đại thể của nó. Cái bàn với hình thể, màu sắc, trọng lượng. Những thuộc tính ấy định nghĩa cái nội dung thực tại của đối tượng khách quan. Trong tri giác tôi đã nắm được nội dung chân chính của đối tượng. Tôi đã định nghĩa được rồi. Nhưng phân

10

tích cái nội dung ấy, chúng ta thấy có mâu thuẫn giữa thuộc tính với vật thể cá biệt. Nếu thực chất của nó là thuộc tính đại thể thì tôi không nắm được cái gì cá biệt cả. Ví dụ: Tôi nói cây này màu xanh, nhưng xanh này lại khác xanh của các vật khác.

Thành ra trong tri giác vẫn có mâu thuẫn, và do đó bước đầu phải trở lại cảm giác. Những thuộc tính lại trở lại cá biệt mà không phải là đại thể nữa. Nhưng trong cảm giác ấy lại có mầm mống để phát triển nội dung theo chân lý của nó. Là vì nếu chúng ta đặt thuộc tính ấy là thực tế khách quan. Nếu có gì thiếu sót thì ta cho nó là của chủ quan. Vì sai lầm chủ quan cho nên tưởng thuộc tính của nó lúc thế này lúc thế khác, nhưng khách quan thì vật thể có thuộc tính nhất định của nó. Nếu cho rằng sai lầm là chủ quan của ta, thì chúng ta đã đặt được chân lý ở vật thể tri giác. Nhưng mọi vật thể lại liên quan với nhau: nội dung chân chính của vật thể là do quan hệ của nó với vật khác. Quan hệ có thể hiểu biết được, quan hệ lý tính chứ không phải cái này, cái kia với những thuộc tính của nó. Mâu thuẫn đó đưa đến một hình thức cao hơn, tri giác, tức là trí tuệ có thể hiểu biết, tính toán ngoài cảm giác. (Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại)

4. TRÍ TUỆ

Với trí tuệ, chúng ta nắm được chân lý cao, nhưng vẫn có mâu thuẫn, chân lý ấy lại tự phủ định nó. Chân lý của trí tuệ là những quan hệ toán lý mà chúng ta có thể hiểu biết được ngoài hay trên thế giới cảm giác kinh nghiệm. Với hoạt động trí tuệ, chúng ta xây dựng một thế giới mới, thế giới cao hơn thế giới cảm giác, một thế giới siêu giác. Thế giới siêu giác là chân lý, là thực tế khách quan chân chính ngoài chúng ta.

Phân tích nội dung, chúng ta thấy trong ấy có những quan hệ toán lý. Nhưng quan hệ toán lý gì? Căn bản là cách chúng ta tính toán, nó là hoạt động tính toán của ý thức. Chính nó là cái hoạt động của ý thức. Nội dung của nó là chủ quan, mà ta tưởng là ở ngoài ta.

Đến đây có mâu thuẫn: hình thức đối tượng khách quan mâu thuẫn với nội dung đối tượng khách quan (tức là chủ quan). Do đó, chân lý khách quan là chủ quan. Thế giới khách quan không có gì là khác mình. Ý thức chuyển lên ý thức bản ngã, và chính

 

11

thế giới khách quan cũng là ý thức thôi. Hêgen đã đi thêm một bước nữa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa duy tâm.

4.1 Thực tế trong lịch sử loài người, cũng có một lúc khoa học định nghĩa thế giới khách quan bằng toán lý.

Nhưng có phải nó chấm dứt với ý nghĩa tri giác không? Những quan hệ toán lý nó đặt ra là trên cơ sở kinh nghiệm. Quy luật này, quy luật kia, là quy luật của thế giới vật chất xuất hiện trong kinh nghiệm. Còn nội dung toán lý thật ra thì có phần chủ quan, vì do hoạt động tính toán của chúng ta. Nhưng hoạt động tính toán của chúng ta cũng là phản ánh một quá trình cơ giới thực sự mà chúng ta nắm trong kinh nghiệm máy móc. Không có sản xuất máy móc, không có tính toán, và tính toán chỉ là một cách phản ánh cái hoạt động máy móc đã có, và dự tính quá trình lao động máy móc sau này. Nội dung thực sự là thực tế khách quan của thế giới vật chất.

4.2 Đến trình độ trí tuệ, Hegen nói chính đối tượng ý thức ấy là mình (ý thức biến thành ý thức bản ngã).

Điểm này cũng phản ánh một hiện tượng thực tế. Vì ý thức bản ngã là gì? làm sao mà tôi có ý thức bản ngã được.

Trong quá trình lịch sử, ý thức bản ngã phát triển với hoạt động sở hữu hóa. Tôi là tôi có của. Quá trình sở hữu hóa có thể cá thể hay tập thể. Thời thị tộc, tôi tức là tôi tập thể. Bản ngã có tính chất cá thể xuất hiện với chế độ sở hữu cá thể, tách biệt người này với người kia. Của của tôi không phải là của của anh. Quá trình sở hữu hóa tự phát đến chế độ tư bản mới có tính chất tự giác. Chính đấu tranh của giai cấp tư bản chống giai cấp phong kiến nhằm chế độ tư hữu mới, có ý thức, đấu tranh chống lại những đặc quyền của giai cấp phong kiến. Trái lại, đấu tranh của nô lệ chống chủ nô, hay phong kiến mới chống Nhà nước chủ nô cũ, không có ý thức rõ rệt về nội dung thực sự, tức là thay đổi chế độ sở hữu. Sở dĩ bọn tư bản có ý thức như vậy là vì lần đầu tiên có một tổ chức sản xuất mà người chỉ huy sản xuất có thể nắm được rõ rệt quá trình của nó. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là một phương thức có ý thức, bọn tư bản tính toán quá trình sản xuất một cách chi tiết. Tất nhiên không phải

12

là tính toán toàn bộ, họ chỉ trong phạm vi cục bộ tư hữu thôi, chứ không phải toàn bộ, cho nên sinh ra hẹp hòi, duy tâm, trừu tượng. Nhưng trong giới hạn ấy, nó có nắm được quá trình sản xuất. Trong giới hạn ấy, bọn tư bản nắm được hoạt động của con người theo hình thức kỹ thuật trừu tượng. Vì họ nắm được như vậy, cho nên ý thức sở hữu của họ rất rõ rệt.

Chính tổ chức sản xuất với cách vận dụng trí tuệ của nó gây ra ý thức sở hữu và cuộc đấu tranh giai cấp của tư bản chống phong kiến.

Hêgen đã phản ánh quá trình này trong phạm vi tinh thần. Hêgen nói: những mâu thuẫn của trí tuệ đưa đến ý thức bản ngã. Thực tế, nó là quá trình phương thức tư bản chủ nghĩa chuyển lên đấu tranh chống phong kiến, tranh giành quyền tư hữu tư bản chủ nghĩa. Nó là một quá trình thực tế trong lịch sử. Nhưng Hêgen đã phản ánh một cách hẹp hòi nên kết luận lộn ngược: thế giới là chúng ta tức là không có thế giới, chỉ có chúng ta.

Triết học Hêgen là duy tâm tuyệt đối, nhưng nó thông qua cả nội dung cụ thể của lịch sử, không để một cái gì ở ngoài cả. Chính nội dung tuyệt đối là do nó phản ánh lịch sử có thật. Nó có cái mà Marx gọi là «hạt nhân duy lý». Mâu thuẫn xuất hiện trong phạm vi tinh thần phản ánh mâu thuẫn thực sự của tự nhiên.

Phương pháp nêu mâu thuẫn, vận dụng mâu thuẫn, diễn tả quá trình biến chuyển theo mâu thuẫn là một phương pháp rất đúng mà Hêgen đã vận dụng trong phạm vi duy tâm, một cách trái ngược, nhưng căn bản có hình thức đúng. Nội dung ấy đã bị xuyên tạc. Đấu tranh giai cấp thực sự trong xã hội thì Hêgen lại quan niệm là quá trình phát sinh của ý thức tự ngã. Nhưng trong lúc mô tả quá trình phát sinh ấy trong phạm vi tinh thần với những khái niệm trừu tượng, thực tế Hêgen đã diễn tả những hình ảnh phản ánh cuộc đấu tranh thực sự giành quyền sở hữu của giai cấp tư bản.

5.Ý thức bã ngã

Có thể nói đây là chương nổi tiếng nhất của quyển Hiện tượng luận tinh thần.

Chương này được sử dụng rất nhiều. Nó chia làm hai phần:

13

Phần I – Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã.

Phần II – Tự do tính của ý thức bản ngã.

Phần thứ I: phản ánh những cuộc đấu tranh phát triển cuối thời thị tộc và quá trình chuyển biến của chế độ nô lệ.

Phần II trình bày những chủ nghĩa phát triển cuối thời nô lệ ở Địa Trung Hải. Ba chủ nghĩa: khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ (tức là đạo Gia tô) nhằm đề cao tự do tính của con người. Theo Hêgen, những người theo đạo Gia-tô là những người có tâm hồn gian khổ. Tâm hồn họ được cứu thế, nhưng đời này thì tâm hồn đó vẫn gian khổ. Chính trạng thái gian khổ đó gây nên đòi hỏi cứu thế. Hêgen đã diễn tả quá trình lịch sử đó trong phạm vi tinh thần.

5.1Tự do tính của ý thức bản ngã

Nhờ công trình lao động của nô lệ, đời cổ đại đã xây dựng được một thế giới mới có tính chất nhân tạo, trong đó ý thức bản ngã có thể hưởng được tự do, nghĩa là lúc trông thấy vật thể bên ngoài, nhận thấy vật thể bên ngoài cũng là nó. Tự do là sống trong một thế giới mà mình tự nhận mình trong thế giới ấy, những vật thể trong thế giới ấy đã mất tính chất độc lập với ta mà là những vật thể của mình thôi. Sống trong thế giới ấy tức là hưởng được đời sống tự do, không bị cái gì đối lập, cưỡng bách mình. Hegel đã trình bày hình thức tự do đó trong phạm vi tinh thần, qua ba chủ nghĩa sau đây:

5.1.2 Lý tính

Lý tính là ý thức bản ngã tin tưởng rằng mình là tất cả sự vật trong thế giới. Ở đây, tư tưởng duy tâm của Hegel lên đến cao độ: ý thức chủ quan nhận thấy mình trong tất cả sự vật.

Biện chứng pháp của lý tính thông qua 3 giai đoạn:

1 – Lý tính thực nghiệm,

2 – Lý tính thực tiễn gồm có 3 giai đoạn nhỏ:

14

a) Hưởng lạc và định mệnh;

b) Luật của lương tâm và tự cao điên cuồng;

c) Đạo đức và thời cuộc.

3 – Lý tính trong cái thực hiện của mình gồm có:

a) Giới động vật của tinh thần và cái lừa dối hay chính sự việc ấy đấy;

b) Lý tính lập pháp;

c) Lý tính kiểm pháp.

Quá trình diễn biến của lý tính phản ánh quá trình đấu tranh giai cấp trong thời đại tư sản đang lên.

1 – Lý tính thực nghiệm (tiếp thu kinh nghiệm)

Lý tính thực nghiệm là ý thức tin tưởng mình là mọi sự vật, trong thế giới chỉ có mình thôi. Nó phát triển bằng tư tưởng thực nghiệm, tìm tòi mình trong tự nhiên, vì tin tưởng trong tự nhiên chỉ có mình. Do đó mà phát triển khoa học thực nghiệm.

Lòng tin tưởng của nhân loại vào mình đã thành lập trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, nhưng gặp mâu thuẫn khi chuyển lên vấn đề người: lúc nó đặt vấn đề con người là gì? tư tưởng là gì (tâm lý học)? Khoa học tự nhiên quan niệm người là một vật tự nhiên, nó là một bộ óc như vậy làm sao nó lại tư tưởng được (nó tự nhận nó trong vật ấy được). Do mâu thuẫn ấy, ý thức lý tính chuyển sang một lập trường mới: lý tính thực tiễn. Nó không thể nhận thấy nó trong tự nhiên, cho nên nó phải tự thực hiện nó trong tự nhiên.

5.1.3 Lý tính thực tiễn thông qua 3 giai đoạn:

a – Hưởng lạc và định mệnh

Chủ yếu là hưởng lạc trong luyến ái, phát triển trong thế kỷ XVII, XVIII. Tư tưởng hưởng lạc là một hình thái tư tưởng cao hơn trình độ ham muốn, vì nó bao hàm ý thức bản ngã: đã tin tưởng mình là tất cả sự vật, mình thống trị thế giới. Nhưng nó lại gặp một ý thức khác (một người khác) cùng tin tưởng như thế. Hai bên rất xa cách

15

nhau, vì mỗi người mang một thế giới trong đầu óc. Mỗi cá nhân đều tự giác về quyền lợi tuyệt đối của mình, nhưng lại gặp một cá nhân khác cũng tự giác. Như thế chỉ còn một cách giải quyết là gây ra một cái thông cảm để phá cái ngăn trở giữa cá nhân và cá nhân. Cái cản trở đó bị phá bỏ trong sự hưởng lạc. Sự hưởng lạc đó không phải chỉ nhằm hấp thụ đối tượng vào mình, mà có ý thức phá bỏ xa cách giữa cá nhân và cá nhân để gây nên một ý thức đại thể. Trong hưởng lạc, cá nhân thông cảm với toàn bộ thế giới, tìm sự giải phóng con người trong cái hưởng lạc đó, và đặt cho mình một giá trị tuyệt đối: đưa cá nhân lên đại thể. Đến đây lại xuất hiện mâu thuẫn: đại thể đây không có ý nghĩa cụ thể, thông qua một cách chung chung, không nắm được điểm nào dứt khoát; rất trừu tượng. Đó chính là cái định mệnh. Thực tế, trong cái hưởng lạc không đạt được mức cao hơn, do định mệnh hai bên thông cảm với nhau mà hưởng được hạnh phúc, nhưng không biết dựa vào đâu, không hiểu vì sao có cái định mệnh ấy? Định mệnh là một khái niệm nghèo nàn không có nội dung. Nhưng trong cái nghèo nàn ấy, lý tính cảm thấy mình không còn là cá nhân hưởng lạc mà mình có giá trị đại thể. Do mâu thuẫn này, ý thức lại chuyển lên một hình thức cao hơn: luật của nhân tâm và tự cao điên cuồng. (Tiểu luận triết học hêghen và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thân thời đại)

5.14 Lý tính trong cái thực hiện của mình

a – Giới động vật của tinh thần và cái lừa dối hay chính sự việc ấy đấy

Cá nhân chỉ biết có mình thôi, không biết người khác, nhưng khi phát huy tài năng thì mỗi cá nhân lại làm công việc chung. Công việc của nó làm có ý nghĩa tinh thần: do đó gọi là giới động vật của tinh thần: mỗi sự nghiệp cá nhân là một bộ phận của sự nghiệp chung; nó tưởng là nó làm cho nó thì nó đã làm cho tập thể, nhưng thực tế thì nó lại cũng làm cho cá nhân nó. Mâu thuẫn đó Hegel kêu là lừa dối. Nhưng mà trong quá trình mâu thuẫn ấy, chúng ta đi đến ý thức cái mà ta nhầm chính là sự việc ấy đấy. Như thế, ý thức không phải là cá nhân, vì sự việc ấy có ý nghĩa đại thể. Nếu đã nhận thức được điểm ấy, thì ý thức đặt quy luật cho thế giới: đó là lý tính lập pháp

XEM THÊM:

GẶP TƯ VẤN VIÊN

Chúng tôi chuyên nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn sẽ giúp bạn hoàn thành đề tài của mình.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Bài viết mới
Luận văn Quản lý đánh giá giáo viên các trường tiểu học huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre theo chuẩn nghề nghiệp

Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý đánh giá giáo viên các trường tiểu học huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre theo chuẩn nghề nghiệp cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm […]

Luận văn Phát triển đội ngũ hiệu trưởng các trường tiểu học huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông theo tiếp cận quản lý nguồn nhân lực

Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Phát triển đội ngũ hiệu trưởng các trường tiểu học huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông theo tiếp cận quản lý nguồn nhân lực cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học […]

Luận văn Thực trạng quản lý đổi mới hoạt động giảng dạy Tiếng Anh ở các trường Trung học phổ thông tại Bình Dương

Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Thực trạng quản lý đổi mới hoạt động giảng dạy Tiếng Anh ở các trường Trung học phổ thông tại Bình Dương cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn […]

Luận văn Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh Trường Tiểu học An Tường, thành phố Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay

Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh Trường Tiểu học An Tường, thành phố Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những […]

Luận văn quản lý hoạt động dạy học theo quan điểm quản lý sự thay đổi ở trường trung học phổ thông tân trào – tỉnh tuyên quang

Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục quản lý hoạt động dạy học theo quan điểm quản lý sự thay đổi ở trường trung học phổ thông tân trào – tỉnh tuyên quang cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với […]

Luận văn Quản lý hoạt động dạy học theo chuyên đề cấp THPT ở Trung tâm GDNN – GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý hoạt động dạy học theo chuyên đề cấp THPT ở Trung tâm GDNN – GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên […]

Luận văn Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Nam Định đáp ứng yêu cầu năng lực ngoại ngữ

Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Nam Định đáp ứng yêu cầu năng lực ngoại ngữ cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. […]

Luận văn Quản lý hoạt động dạy học của các trường Tiểu học tại huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý hoạt động dạy học của các trường Tiểu học tại huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. […]

Bài viết liên quan
Tiểu luận Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như […]

Tiểu luận Vai trò của con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Vai trò của con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như các […]

Tiểu luận mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội và xã hội hoá sản xuất qua một số tác phẩm thời kỳ đầu của Mac

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận mối quan hệ giữa phân công lao động xã hội và xã hội hoá sản xuất qua một số tác phẩm thời kỳ đầu của Mac đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập […]

Tiểu luận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công và liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công và liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu […]

Tiểu luận quan điểm về con người trong triết học tây âu thời kỳ phục hưng và cận đại

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận quan điểm về con người trong triết học tây âu thời kỳ phục hưng và cận đại đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như […]

Tiểu luận nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở việt nam trong thời kỳ quá độ

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở việt nam trong thời kỳ quá độ đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều […]

Tiểu luận Vận dụng quan điểm trong triết học Mác – Lê Nin để phân tích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Vận dụng quan điểm trong triết học Mác – Lê Nin để phân tích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập […]

Tiểu luận Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng […]

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
DMCA.com Protection Status