Tiểu luận các quy định về chống bán phá giá theo quy định của WTO và thực tiễn tại Việt Nam
Chia sẻ tài liệu tiểu luận: Các quy định về chống bán phá giá theo quy định của WTO và thực tiễn tại Việt Nam. Tài liệu được Luận Văn 3C chia sẻ nhằm giúp các bạn học viên cao học tham khảo từ đó giúp các bạn viết bài tiểu luận môn học của mình đạt kết quả cao nhất.

Trong quá trình viết bài tiểu luận môn học, nếu có khó khắn và cần sự hỗ trợ liên lạc với Luận văn 3C để được hỗ trợ viếtbài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết tiểu luận thuê tại đây nhé.
===> Dịch vụ viết tiểu luận thuê
Ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đã và đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi cho các quốc gia phải tăng cường mở cửa, hợp tác kinh tế quốc tế trên tất cả các mặt. Hội nhập và tham gia vào sân chơi của thế giới là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế – xã hội của từng nước. Xu hướng hiện nay của các quốc gia chính là tham gia vào các tổ chức kinh tế – thương mại mang tính tầm cỡ quốc tế. Mở cửa thị trường nội địa, hợp tác kinh tế thông qua cắt giảm thuế quan, loại bỏ hàng rào phi thuế quan gây cản trở thương mại, ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh, v.v…là những mục tiêu hướng đến của các quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh những cơ hội của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế mang lại thì những thách thức mà các quốc gia phải đối mặt càng trở nên gay gắt và khốc liệt hơn. Để có thể tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp lớn, nhỏ sẽ không ngần ngại sử dụng các biện pháp cạnh tranh kể cả những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có việc bán phá giá hàng hóa. Điều này thực sự đã gây ra nhiều thiệt hại cho ngành sản xuất của những nước nhập khẩu. Nhằm hạn chế và loại bỏ tình trạng trên thì WTO đưa ra những quy định về CBPG. Những quy định này đã đề ra các biện pháp nhằm bảo đảm cho hoạt động thương mại quốc tế được diễn ra một cách công bằng và được nhiều nước áp dụng. Song, không phải nước nào cũng áp dụng những quy định đó một cách cụ thể, đúng đắn, đôi khi những quy định này như là rào cản nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước hoặc như là một vũ khí để trả đũa thương mại, mang động cơ về chính trị.
Việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức mang tính chất khu vực cũng như toàn cầu như ASEAN, APEC và gần đây nhất là vào năm 2007 Việt Nam đã trở thành là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mang đến những thuận lợi và khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập. Thực tế đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả những công cụ bảo hộ nhằm phù hợp với quy định của WTO trong đó có thuế chống bán phá giá. Thông qua đó có thể bảo vệ các ngành sản xuất nội địa và thị trường trong nước chống lại việc bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu vào nước ta.
Với tính ưu việt và tầm quan trọng nêu trên, các quy định về CBPG một vấn đề quan trọng không thể thiếu được trong nền kinh tế hàng hoá với cơ chế mở cửa hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới như hiện nay. Thế nhưng, trong khi nhiều nước trên thế giới tiến hành hoạt động CBPG một cách mạnh mẽ thì thực tiễn của quá trình áp dụng các quy định của WTO về CBPG ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, còn có những khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Các quy định về chống bán phá giá theo quy định của WTO và thực tiễn tại Việt Nam” là một việc làm cần thiết và cấp bách nhằm góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về CBPG cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về CBPG nói riêng và hệ thống pháp luật kinh tế nói chung, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chống bán phá giá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tiểu luận tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau:
Những vấn đề lý luận chung nhất về CBPG như một số khái niệm liên quan đến chống BPG, tác động và nguyên nhân của việc BPG, đồng thời điểm qua vài nét về hoạt động CBPG của một số nước trên thế giới và sự điều chỉnh của pháp luật về chống bán phá giá theo quy định của WTO cũng như hoạt động giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong thực tế
Thực tế áp dụng về các quy định của WTO về chống bán phá giá ở Việt Nam nhằm đánh giá thực trạng, tìm hiểu những hạn chế và khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định trên.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong các văn bản pháp luật CBPG như: Hiệp định chống bán phá giá của WTO, Pháp lệnh về Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện,v.v…
Phương pháp sử dụng cho toàn bài nghiên cứu là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm:
Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống, tương đối toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về chống bán phá giá và một số vấn đề có liên quan.
So sánh, đối chiếu, thống kê, phân tích số liệu, kết quả tổng kết và các quan điểm khác nhau để rút ra kết luận, tìm hiểu nguyên nhân vấn đề và các giải pháp hữu hiệu khắc phục hạn chế.
Những năm trở lại đây, CBPG là vấn đề đang được nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng quan tâm. Chọn hoạt động CBPG làm đối tượng nghiên cứu, chúng ta có điều kiện đi sâu phân tích những vấn đề lý luận chung và các quy định của pháp luật của WTO về vấn đề này, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc CBPG trong quá trình phát triển kinh tế của thế giới và ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về CBPG tại Việt Nam, rút ra những ưu, hạn chế của pháp luật và vướng mắc trong quá trình thực thi. Từ đó đề xuất những giải pháp góp phần phát triển và hoàn thiện pháp luật, tìm hướng khắc phục những khó khăn trong tổ chức quản lý và quá trình thực thi pháp luật về chống bán phá giá.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của đề tài gồm có 2 chương:
Chương 1: Quy định của WTO về chống bán phá giá.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về chống bán phá giá của WTO ở Việt Nam và một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về chống bán phá giá.
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, “bán phá giá” được định nghĩa là việc bán ồ ạt hàng hóa với giá thấp hơn thị trường, thậm chí là là chịu lỗ, nhằm tăng khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường (theo Từ điển Tiếng Việt trực tuyến, phiên bản của Trung tâm từ điển học Việt Nam).
Đại từ điển Trung Việt – do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam được Bộ Giáo dục và đào tạo phát hành có ghi nhận: Bán phá giá là bán thấp hơn giá chung của thị trường để nhằm cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường [4,tr96].
Dưới góc độ pháp lý, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hóa được xuất khẩu với giá thấp hơn giá bán của hàng hóa đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Theo quan điểm của Liên minh Châu Âu (EU) thì xem bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện tượng xảy ra khi một sản phẩm được xuất khẩu sang EU với giá thấp hơn giá thông thường của mặt hàng đó (thường được xác định là giá bán mặt hàng tương tự tại thị trường nước xuất khẩu). Đối với Mỹ thì thì hành vi bán phá giá là việc bán hàng tại thị trường Mỹ với mức giá thấp hơn mức giá hàng hóa so sánh tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu và việc bán hàng đó gây thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước của Mỹ.
Điều VI, khoản 1 GATT 1994 quy định BPG là việc “sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm” [4, tr9]. Cụ thể hơn, tại điều 2, khoản 1 Hiệp định ADA quy định: “một sản phẩm được coi là BPG ( tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường” [6,tr1]. Trong đó, “sản phẩm tương tự” được biết đến là sản phẩm giống hệt hoặc có đặc tính gần giống với sản phẩm là đối tượng điều tra CBPG và “điều kiện thương mại thông thường” tức là việc bán hàng hóa được thực hiện trong môi trường có cạnh tranh, theo đó giá cả được thiết lập từ sự tác động qua lại một cách tự do giữa cung và cầu.
Khoản 1- điều 2, Pháp lệnh về việc CBPG hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam có quy định như sau: “Thuế CBPG là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước” (khoản 1- điều 2) [16,tr1]. Với quy định như trên thì Pháp lệnh chống bán phá giá đã điều chỉnh một cách tương đối hợp lý các vấn đề liên quan đến việc áp dụng những quy định về CBPG của quan hệ thương mại quốc tế vào quan hệ thương mại nội địa, phù hợp với thực tiễn áp dụng tại Việt Nam. Tạo ra nền tảng pháp lý cơ sở cho các hoạt động nhằm hạn chế và kiểm soát những hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế – quốc tế.
Về trình tự giải quyết tranh chấp được thực hiện như sau:
Trình tự, thủ tục CBPG thực chất là một quy trình kiện – điều tra – kết luận – áp dụng các biện pháp CBPG (nếu có) và là một thủ tục hành chính do các cơ quan nhà nước NK thực hiện. Thủ tục này nhằm giải quyết tranh chấp thương mại giữa một bên là các ngành sản xuất nội địa và một bên là các nhà sản xuất/xuất khẩu nước ngoài. Những yếu tố cơ bản hình thành bao gồm:
– Đối tượng là một loại hàng hóa nhất định được nhập khẩu từ một hoặc một số quốc gia xuất khẩu;
– Nguyên đơn là ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu sản xuất ra sản phẩm tương tự với sản phẩm được cho là bán phá giá, gây nên thiệt hại;
– Bị đơn là tất cả các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất và xuất khẩu loại hàng hóa/ sản phẩm là đối tượng của đơn kiện;
– Cơ quan xử lý là một hoặc một số cơ quan có thẩm quyền được nước nhập khẩu trao quyền thực hiện điều tra hành vi BPG và quyết định có hay không việc áp dụng biện pháp CBPG. Có thể tóm gọn trình tự, thủ tục các bước chống BPG theo quy định của WTO vào 03 giai đoạn, cụ thể như sau:
- Giai đoạn từ khi nhận đơn đến chuẩn bị điều tra sơ bộ
* Chuẩn bị trước khi bắt đầu điều tra
Căn cứ để cơ quan có thẩm quyền của một quốc gia bắt đầu một cuộc điều tra về hành vi bán phá giá dựa vào các căn cứ sau:
– Đơn khiếu nại (đơn yêu cầu)
Nếu một cuộc điều tra về CBPG được khởi xướng trên cơ sở của đơn khiếu nại thì theo quy định tại Hiệp định ADA thì sẽ bao gồm các bằng chứng của: “ (a) việc bán phá giá, (b) có sự thiệt hại được quy định tại điều VI của Hiệp định GATT 1994 và được diễn giải theo quy định tại Hiệp định ADA và (c) mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được bán phá giá và tồn tại đang nghi ngờ xảy ra”[6,tr 8].
Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định tại khoản 4 – điều 5, Hiệp định ADA như sau:
+ Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện [2,tr9]; và
+ Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng SPTT chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất trong nước [6, tr10].
Nội dung đơn khiếu nại bao gồm các thông tin hợp lý mà người nộp đơn có được về các vấn đề như: tên của người nộp đơn, mô tả số lượng và giá trị sản phẩm mà người nộp đơn sản xuất trong nước; mô tả đầy đủ về sản phẩm bị nghi ngờ là BPG; thông tin về giá bán hàng hóa được xem xét khi được tiêu thụ trong nước tại nước xuất xứ hoặc nước xuất khẩu hàng hóa đó; thông tin về diễn biến khối lượng nhập khẩu của hàng bị nghi là BPG…[6,tr9]. Do lo lắng về những tác động của đơn khiếu nại gây ra cho nên Hiệp định ADA yêu cầu nội dung và tính chất khiếu nại cần phải giữ bí mật cho đến khi cơ quan điều tra bắt đầu điều tra.
– Cơ quan điều tra tự mình tiến hành cuộc điều tra
Trong trường hợp đặc biệt theo Hiệp định ADA thì các cơ quan hữu quan sẽ quyết định điều tra mặc dù không có đơn yêu cầu tiến hành điều tra hay đại diện của ngành sản xuất trong nước với các căn cứ đó là:
+ Khi có bằng chứng rõ ràng về việc bán phá giá xảy ra;
+ Có chứng cứ về việc gây tổn hại cho ngành công nghiệp nội địa, có mối quan hệ nhân quả giữa hành động BPG và thiệt hại được quy định trong điều 2 của Hiệp định ADA, [2,tr10].
Cơ quan điều tra có nghĩa vụ phải kiểm tra mức độ chính xác và đầy đủ về nội dung thông tin được ghi trong đơn kiện nhằm xác định các căn cứ để tiến hành một cuộc điều tra hay là không.
– Theo đề nghị của một nước thứ ba
Điều tra hành vi bán phá giá có thể được tiến hành trên cơ sở đơn đề nghị của một nước thứ ba. Đơn đề nghị của nước thứ ba sẽ được gửi cho cơ quan có thẩm quyền, đơn này phải cho thấy các hàng hóa nhập khẩu đang được BPG và những thông tin chi tiết cho thấy rằng trường hợp trên đang gây thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước của nước thứ ba. Quyết định có tiến hành điều tra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào nước nhập khẩu trong trường hợp này.
Trường hợp nước nhập khẩu quyết định điều tra và sẵn sàng áp thực hiện các biện pháp chống bán phá giá thì chính nước nhập khẩu sẽ phải trình lên Hội đồng Thương mại Hàng hóa thuộc WTO xin chấp nhận các biện pháp đó [6,19].
* Quyết định khởi xướng điều tra
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động điều tra hành vi BPG hàng hóa của các nhà xuất khẩu sẽ phải tiến hành các hoạt động kiểm tra tính xác thực trong nội dung của đơn kiện. Điều 5 khoản 8, Hiệp định ADA quy định: Một đơn yêu cầu sẽ bị từ chối và các cuộc điều tra sẽ bị đình chỉ ngay lập tức nếu:
+ Không có đầy đủ bằng chứng về việc BPG hoặc về tổn hại đủ để biện minh cho việc triển khai điều tra trường hợp BPG.
+ Cơ quan có thẩm quyền xác định BĐPG không vượt quá mức tối thiểu (biên độ đó thấp hơn 2% của giá xuất khẩu).
+ Khối lượng hàng hóa nhập khẩu được BPG được coi là không đáng kể (tức là khối lượng hàng hóa đó chiếm ít hơn 3% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự vào nước nhập khẩu). Trừ trường hợp quy định này sẽ không áp dụng nếu tổng lượng hàng nhập của các nước xuất khẩu chiếm trên 7% tổng sản phẩm nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu [6,tr10].
+ Cam kết giá được chấp nhận.
Khi đã có quyết định chính thức bắt đầu điều tra thì các cơ quan có chức năng sẽ thông báo bắt đầu điều tra cho các bên có quyền lợi liên quan biết. Thông báo bao gồm các nội dung như: ngày bắt đầu điều tra; tên của nước xuất khẩu, sản phẩm trong diện điều tra; những vấn đề được đề cập trong đơn khiếu kiện; tóm tắt các yếu tố dẫn đên khẳng định việc gây thiệt hại là do hành vi BPG; giới hạn thời gian để cho các bên đưa ra ý kiến riêng của mình…
- Giai đoạn tiến hành điều tra
Trong khi điều tra chống bán phá giá thì thủ tục hải quan vẫn được tiến hành. Điều 5, khoản 10 Hiệp định ADA ghi nhận rằng: “Ngoại trừ trường hợp đặc biệt, quá trình điều tra phải được kết thúc trong vòng 1 năm và trong mọi trường hợp không vượt quá 18 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra” [6,tr12].
Thời gian từ khi nhận đơn yêu cầu đến khi bắt đầu thủ tục tố tụng là 45 ngày. Thời gian đi đến quyết định tạm thời là 6 tháng. Thời gian đi đến quyết định cuối cùng là 9 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra.
Thời gian trên áp dụng cho các khiếu nại kể từ ngày 01/9/1995.
+ Tiến hành hoạt động điều tra sơ bộ
Hoạt động điều tra sơ bộ được tiến hành thông qua các hoạt động đó là: thu thập, xác minh các thông tin, thông tin do các bên có liên quan tự cung cấp. Cơ quan điều tra sẽ gửi thông báo cho các bên, đồng thời đề nghị cung cấp bằng văn bản những thông tin có liên quan đến hoạt động điều tra. Thời hạn trả lời bảng câu hỏi điều tra là 30 ngày và có thể gia hạn thêm 30 ngày hoặc lâu hơn nếu xét thấy đó là điều cần thiết [6, tr12]. Bảng câu hỏi là cơ sở cho việc thu thập thông tin và tạo nên kết luận của cuộc điều tra.
Bất kỳ các thông tin bí mật được các bên có liên quan cung cấp sẽ không bị tiết lộ nếu không được bên cung cấp cho phép. Cơ quan điều tra có thể tiến hành điều tra ở nước ngoài nếu xét thấy đó là điều cần thiết.
Các bên liên quan có quyền nghe, xem các thông tin và dựa vào đó để trình bày lý lẽ của mình. Ngoài ra, được cơ quan điều tra thông báo công khai những kết quả thông qua hoạt động điều tra và kết luận chi tiết.
+ Kết luận sơ bộ
Quá trình điều tra sơ bộ kết thúc có thể kèm theo quyết định áp dụng biện pháp tạm thời. Nếu biện pháp tạm thời được áp đặt thì phải tuân thủ những điều kiện đã được quy định trong hiệp định ADA của WTO. Biện pháp tạm thời có thể áp dụng dưới các hình thức như là: thuế, đặt cọc, cho thông quan nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mức thuế nhập khẩu thông thường và mức thuế chống bán phá giá dự kiến áp dụng. Trên thực tế biện pháp được áp dụng nhiều nhất là đặt cọc.
+ Điều tra cuối cùng
Trong giai đoạn này những cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành các bước thẩm tra về việc BPG thiệt hại có thể xảy ra. Phân tích những phản ứng (nếu có) có thể xảy ra đối với việc áp dụng BPTT. Trước khi đưa ra quyết định cuối cùng cơ quan có thẩm quyền sẽ thông báo cho các bên liên quan (bao gồm:
“(i) Một nhà xuất khẩu hoặc một nhà sản xuất nước ngoài hoặc một nhà nhập khẩu của sản phẩm đang được điều tra, hoặc hiệp hội ngành nghề, hiệp hội kinh doanh mà đại đa số thành viên của hiệp hội đó là các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu sản phẩm đó;
(ii) chính phủ của các Thành viên xuất khẩu; và
(iii) nhà sản xuất các sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu hoặc một hiệp hội thương mại, hiệp hội kinh doanh mà đại đa số thành viên của hiệp hội đó là nhà sản xuất sản phẩm tương tư trên lãnh thổ Thành viên nhập khẩu” quy định tại khoản 11 điều 6 Hiệp định ADA [6,tr14]. Theo quy định của WTO thì danh sách này sẽ có thể đưa thêm vào các bên liên quan trong nước hoặc ngoài nước hoặc các quốc gia khác.
Ở bước điều tra này cơ quan điều tra có thể yêu cầu bổ sung tài liệu bằng việc đặt ra bảng câu hỏi thứ hai. Đồng thời, việc chấp nhận các thông tin, điều tra tính xác thực của thông tin đó được thắt chặt.
Việc thực hiện các quyền của nguyên đơn và bị đơn được thực hiện giống như trong bước điều tra sơ bộ.
Trường hợp hàng nhập khẩu từ các nước là nền kinh tế phi thị trường, nước nhập khẩu có thể lấy mức giá của nước thứ ba để so sánh khi xác định xem đánh thuế CBPG hay không. Giai đoạn này Cơ quan điều tra sẽ quyết định BĐPG cho mỗi nhà xuất khẩu/ nhà sản xuất được biết đến là người cung cấp sản phẩm đang bị điều tra. Nếu việc xác định khó có thể đưa ra một quyết định tối ưu do liên quan đến quá nhiều bên thì cơ quan có thẩm quyền sẽ hạn chế phạm vi kiểm tra trong một số lượng hợp lý hoặc giới hạn sản phẩm (khoản 10 – điều 6) [6,tr13].
Ngoài ra, cơ quan điều tra sẽ tiến hành đánh giá một cách cẩn thận các bằng chứng chứng minh có hay không hành vi bán phá giá hàng hóa cũng như những thiệt hại có thể xảy ra đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. Trong bước điều tra cuối cùng này thì cơ quan điều tra sẽ đề nghị biện pháp chống bán phá giá chính thức sẽ được áp dụng.
- 3. Giai đoạn kết thúc điều tra
Kết luận cuối cùng (có hoặc không áp dụng Thuế chống BPG)
Nếu cuộc điều tra đưa ra kết luận cuối cùng là không có hành vi bán phá giá thì sẽ kết thúc điều tra mà không áp dụng bất kỳ một loại thuế CBPG nào. Tuy nhiên, trong trường hợp có kết luận là hàng hóa đã bán phá giá hàng hóa vào nước nhập khẩu có quyền áp dụng thuế CBPG.
Điều 9, Hiệp định ADA quy định việc đánh thuế và thu thuế thì quyết định về việc có đánh thuế chống bán phá giá hay không sau khi tất cả các điều kiện để đánh thuế đã đáp ứng và quyết định xem liệu mức thuế chống bán phá giá sẽ tương đương hay thấp hơn biên độ phá giá sẽ thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra.
– Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá
Có 2 hình thức thu thuế CBPG được áp dụng trong thực tiễn đó là:
+ Kiểu tính thuế hồi tố: việc tính mức thuế được căn cứ vào số liệu của thời điểm trước khi điều tra (6 tháng – 1 năm). Sau khi điều tra, cơ quan có thẩm quyền sẽ bắt đầu áp dụng một mức thuế CBPG. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu xem xét và đánh giá lại mức thuế đã áp dụng (do giá xuất khẩu tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác định lại số tiền thuế phải nộp trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu thì mức thuế mới sẽ được áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày sau khi xác định lại mức thuế cuối cùng phải nộp.
+ Kiểu tính thuế ấn định: Đối với kiểu tính thuế này thi cơ quan điều tra sẽ lấy số liệu của thời điểm trước khi điều tra để tính BĐPG và ấn định biên độ này cho cả quá trình áp dụng thuế CBPG. Khi áp dụng thuế CBPG được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với phần trị giá cao hơn BĐPG (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế kèm theo đầy đủ bằng chứng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ khi ra quyết định hoàn thuế.
Trong trường hợp một số nhà xuất khẩu/sản xuất sản phẩm BPG quá lớn, không tính riêng BĐPG được thì cơ quan chức năng sẽ giới hạn việc điều tra ở một số nhà xuất khẩu/sản xuất nhất định trên cơ sở trao đổi với các nhà xuất khẩu/sản xuất liên quan.
Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá sẽ được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài và không cao hơn biên phá giá của họ.
Trường hợp có nhiều nhà sản xuất nước ngoài không được lựa chọn để tham gia vào điều tra thì mức thuể áp dụng cho họ không cao hơn biên giá trung bình của tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều tra.
Thuế CBPG sẽ chấm dứt sau 5 năm kể từ thời điểm quyết định áp đặt. Tuy nhiên, nếu cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu, sau khi tiến hành rà soát và kết luận là việc BPG có nhiều khả năng tiếp tục duy trì hoặc tái diễn nếu thuế CBPG chấm dứt hiệu lực thì thuế này sẽ tiếp tục áp dụng thêm 5 năm nữa.
– Hoàn thuế chống bán phá giá
BPTT và thuế CBPG chỉ được áp dụng với sản phẩm được đưa ra bán sau thời điểm quyết định áp dụng BPTT (60 ngày sau điều tra) hoặc quyết định đánh thuế CBPG (1 năm-18 tháng sau điều tra) có hiệu lực.
Phải hoàn thuế trong những trường hợp sau:
Thứ nhất: Mức thuế cuối cùng xác định được thấp hơn mức thuế tạm thời đã thu thì phải hoàn lại khoản chênh lệch cho nhà nhập khẩu, nếu cao hơn thì không được thu thêm.
Thứ hai: Kết luận điều tra cuối cùng khẳng định việc BPG sẽ có thể dẫn đến thiệt hại hoặc làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước thì thuế CBPG chỉ được đánh từ ngày ra kết luận điều tra cuối cùng và phải hoàn lại số tiền đặt cọc đã thu khi áp dụng biện pháp tạm thời.
Thứ ba: Kết luận cuối cùng là không đánh thuế chống bán phá giá thì khoản tiền đặt cọc khi áp dụng biện pháp tạm thời sẽ được hoàn trả.
Những hình thức rà soát
Theo quy định của WTO về CBPG thì có 02 hình thức rà soát là:
– Rà soát lại:
Là biện pháp CBPG được các cơ quan có chức năng tiến hành trên cơ sở là hằng năm sẽ điều tra lại BĐPG thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh một cách hợp lý mức thuế được áp dụng.
Việc rà soát lại có thể dẫn tới việc chấm dứt áp dụng thuế CBPG trước thời hạn hoặc, tiếp tục đặt thuế cho đến hết thời hạn 5 năm hoặc kéo dài thời hạn áp dụng thuế này thêm 5 năm nữa.
Có những hình thức rà soát lại quyết định áp đặt thuế CBPG bao gồm:
+ Rà soát hoàn trả thuế (hay gọi là “Rà soát hành chính” theo pháp luật Hoa Kỳ) là hình thức rà soát để xác định chính xác BĐPG thực tế của hàng hoá trong khoảng thời gian từ khi có quyết định áp thuế chính thức (hoặc kể từ khi có kết quả rà soát liền trước) cho đến khi có yêu cầu rà soát của bên liên quan (hoặc của chính cơ quan điều tra). Rà soát hoàn trả thuế thường được tiến hành theo yêu cầu của một bên liên quan. Nếu kết quả rà soát cho thấy BĐPG thực tế trong khoảng thời gian được rà soát thấp hơn mức thuế đã nộp thì cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ hoàn trả lại phần thuế đã nộp vượt quá BĐPG thực tế.
+ Rà soát do thay đổi hoàn cảnh là hình thức được tiến hành sau khi đã áp thuế CBPG được một thời gian nhất định để xem xét lại việc áp dụng thuế có còn cần thiết hay không và liệu thiệt hại có tiếp tục hoặc tái xuất hiện nếu thuế CBPG bị huỷ bị bỏ. Được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của bên liên quan (hoặc theo sáng kiến của chính cơ quan điều tra) với suy đoán rằng cùng với thời gian, dưới tác động của sự phát triển khoa học ông nghệ, phương thức bán hàng, nhu cầu tiêu dùng…, việc áp thuế và mức thuế áp đặt có thể không còn phù hợp và do đó cần được điều chỉnh hoặc huỷ bỏ. Nếu kết quả rà soát cho thấy thuế CBPG không còn cần thiết hoặc không còn có căn cứ thì quyết định áp thuế sẽ bị huỷ bỏ.
– Rà soát hoàng hôn:
Rà soát hoàng hôn là rà soát được thực hiện ngay trước khi hết thời hạn 5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế CBPG chính thức hoặc kể từ ngày có kết quả rà soát (nếu rà soát được tiến hành cả về BĐPG và thiệt hại). Rà soát được thực hiện theo yêu cầu của bên liên quan hoặc theo sáng kiến của chính cơ quan điều tra. Nếu kết quả rà soát cho thấy việc ngừng áp thuế chống BPG có thể làm tiếp diễn hoặc tái xuất hiện hiện tượng BPG và gây thiệt hại thì thuế chống BPG sẽ tiếp tục được áp dụng thêm 5 năm nữa.
Có thể nói, Hiệp định ADA là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thiết lập một nền TMQT bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế thế giới hiện nay. Việc xác định đặc điểm có liên quan đển Hiệp định ADA sẽ hỗ trợ một phần lớn trong việc thiết lập các quy phạm pháp luật chặt chẽ nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật chống BPG tại Việt Nam
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA CỦA WTO Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỒNG BÁN PHÁ GIÁ
Vì vậy, nhu cầu áp dụng pháp luật CBPG là một đòi hỏi khách quan của quá trình toàn cầu hóa, là xu thế chung của các nước và cũng là nhu cầu thực tế ở Việt Nam. Công việc này không chỉ duy trì thị phần trên thị trường nội địa mà còn xây dựng nên môi trường cạnh tranh lành mạnh, an toàn cho các doanh nghiệp nước ta có cơ hội phát triển các hàng hóa có lợi thế so sánh khi tham gia thị trường chung.
Theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mọi quốc gia là thành viên đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc và quy định có liên quan đến hoạt động TMQT, trong đó có những quy định về CBPG. Những quy định về CBPG là công cụ, biện pháp quan trọng nhằm ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra trong quá trình hội nhập. Từ các quy định trên, các quốc gia sẽ “nội luật hóa” để xây dựng và áp dụng phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tiễn của quốc gia mình. Ngoài ra, Việt Nam đã khẳng định thông qua hoạt động chủ động về chống bán phá giá trên thực tế, cụ thể thông qua vụ việc như sau:
Từ khi gia nhập WTO đến nay Việt Nam chưa lần nào sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp trong WTO như một công cụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp các nước thành viên. Tuy nhiên, trong năm 2010 lần đầu tiên Việt Nam đã khởi động hai vụ kiện, một về CBPG và một về áp dụng biện pháp tự vệ nhằm bảo vệ cho hàng hóa Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Vụ kiện về CBPG do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), bằng hai lá đơn khác nhau, đề nghị Chính phủ Việt Nam kiện Chính phủ Hoa Kỳ ra WTO về việc điều tra, rà soát thuế CBPG đối với tôm xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này. Diễn biến của vụ kiện này như sau:
* Vụ kiện DS404: Hoa Kỳ bị kiện về các biện pháp chống bán phá giá đối với sản phầm tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam.
Giai đoạn Tham vấn (giai đoạn này các nước tranh chấp tiến hành đàm phán với nhau để đưa ra thỏa thuận thống nhất về việc giải quyết tranh chấp): Ngày 01/02/2010, Việt Nam yêu cầu được tham vấn với Hoa Kỳ liên quan đến các biện pháp CBPG mà Hoa Kỳ áp dụng đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh (frozen warmwater shrimp) được nhập khẩu từ Việt Nam. Cụ thể, Việt Nam yêu cầu tham vấn về các cuộc rà soát đối với các nhà xuất khẩu mới, cũng như các quy định pháp luật, quy trình thủ tục hành chính của Hoa Kỳ về CBPG trong đó có phương pháp tính BĐPG gây tranh cãi Zeroing (là thông lệ được Hoa Kỳ sử dụng thường xuyên và ổn định trong nhiều vụ điều tra CBPG. Nội dung của phương pháp này là khi tính toán BĐPG chung, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) chỉ tính các BĐPG có giá trị dương (lớn hơn 0), BĐPG có giá trị âm sẽ được tự động chuyển về thành 0. Với phương pháp này, BĐPG được tính toán sẽ cao hơn, từ đó mức thuế CBPG cũng bị đội lên rất nhiều, làm thiệt cho các nhà xuất khẩu). Ngoài ra, là phương pháp xác định BĐPG cho các bị đơn tự nguyện và quy tắc thuế suất toàn quốc (country-wide rate) mà DOC đã sử dụng trong việc rà soát lại thuế CBPG tôm Việt Nam.
Việt Nam cho rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo quy định tại: – Điều I, II, VI:1 và VI:2 của GATT 1994
– Một số điều khoản trong hiệp đinh ADA
– Điều XVI:4 của Hiệp định WTO và
– Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
EU và Nhật Bản (12/02/2010), Thái Lan (15/02/2010) yêu cầu được tham gia vào cuộc tham vấn với tư cách là Các bên thứ ba.
Giai đoạn hội thẩm (giải quyết tranh chấp theo WTO)
Tham vấn không thành công, do đó ngày 07/04/2010 Việt Nam đã yêu cầu WTO thành lập Ban Hội Thẩm giải quyết tranh chấp vụ việc này. Ngày 20/04/2010, DSB đã trì hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm. Tuy nhiên, tại cuộc họp này 18/05/2010 của DSB, Ban Hội thẩm đã được thành lập. EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Thái Lan, Trung Quốc và Ấn độ yêu cầu tham gia vụ kiện với tư cách các bên thứ ba.
Ngày 20-8-2010: Việt Nam đã nộp cho Ban hội thẩm giải quyết tranh chấp của WTO bản đệ trình vụ kiện Mỹ. Ba chuyên viên của Ban hội thẩm, được Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy chỉ định vào cuối tháng 7/2010, sẽ bắt đầu xem xét vụ khiếu kiện và có nhiệm vụ giúp Cơ quan giải quyết tranh chấp ra phán quyết hay khuyến nghị. Sau 6 tháng, Ban hội thẩm sẽ đưa ra kết luận cuối cùng. Ba tuần sau khi thông báo kết luận cuối cùng cho hai bên tranh chấp, Ban hội thẩm sẽ thông báo cho tất cả các nước thành viên WTO kết quả này.
Mặc dù vào 9/2010 Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố tiếp tục áp thuế CBPG đối với tôm nước ấm đông lạnh từ Việt Nam và có động thái là giảm mức thuế CBPG cho một số công ty như công ty Nha Trang Seaproduct Company xuống mức tối thiểu 0%; Minh Phu Seafood Group được giảm từ 2,95% xuống 1,67%; Camimex được giảm từ 3,92% xuống 1,36%; 29 công ty được giảm thuế từ mức trung bình 3,92% xuống còn 1,52% nhưng mức thuế chung cho các công ty khác trên cả nước là 25,76% vẫn còn cao và gây nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp. Ngày 15 tháng 3 năm 2011, Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đã chính thức bỏ phiếu thông qua quyết định cuối cùng rằng sẽ tiếp tục lệnh áp thuế CBPG đối với mặt hàng tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Brazil với lý do rằng nếu lệnh áp thuế được bãi bỏ thì có thể dẫn đến việc tái diễn hoặc tiếp tục gây ra thiệt hại đáng kể đối với ngành công nghiệp tôm của Hoa Kỳ trong một khoảng thời gian có thể dự đoán trước. Với quyết định này, chúng ta lại mất 05 năm nữa mới có cơ hội được hủy bỏ thuế CBPG, đồng thời vẫn phải tiếp tục vụ kiện Mỹ tại Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Việc đưa vụ kiện Hoa Kỳ áp thuế CBPG đối với mặt hàng tôm nước ấm đông lạnh lên WTO đã thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Theo các nhà tư vấn, bên cạnh những khó khăn gặp phải trong quá trình tiến hành vụ kiện thì nếu thành công có thể đem lại khả năng cạnh tranh cho tôm đông lạnh trên thị trường Mỹ do không phải đặt cọc tiền CBPG. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế rà soát lần hai bằng 0% thay cho mức thuế hiện nay là 4,13% đến 25,76% như hiện nay, đồng thời có thể miễn hoàn toàn thuế CBPG do ba lần rà soát liên tục có kết quả 0%.
Đối với mặt hàng da trơn, Việt Nam cũng đã lên tiếng phản đối Quỹ quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) khi họ đưa mặt hàng này vào “danh sách đỏ” trong cẩm nang hướng dẫn tiêu dùng thủy sản ở một số nước châu Âu. Sau một thời gian WWF đã đưa cá tra ra khỏi danh sách này trở lại nguyên trạng.
Với những nỗ lực tự vệ và chống bán phá giá của các ngành hàng XK Việt Nam,trong năm 2010 một số nước đã dỡ bỏ thuế hoặc giảm thuế CBPG cho Việt Nam, ví như: Ủy ban châu Âu bãi bỏ thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng xe đạp vào tháng 7/2010; Hoa Kỳ giảm thuế mặt hàng tôm cho một số doanh nghiệp; EU xem xét giảm thuế chống bán phá giá giá vít thép của Việt Nam.
Việc giảm thuế hoặc dỡ bỏ thuế CBPG trước hết sẽ giúp người tiêu dùng nước sở tại giảm được gánh nặng thuế phải trả trước đây đối với các mặt hàng bị áp thuế. Ngoài ra, việc dỡ bỏ thuế sẽ góp phần giúp doanh nghiệp Việt Nam vượt qua những khó khăn dẫn đến phải phá sản hoặc duy trì sản xuất cầm chừng. Đây cũng là kết quả của những nỗ lực, phối hợp hiệu quả giữa các hiệp hội, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước trong việc đối phó với các rào cản thương mại.
Qua những kết quả vừa phân tích trên, có thể khẳng định CBPG là một lĩnh vực quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam.Với mục tiêu là ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động thương mại, CBPG đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong hoạt động kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, pháp luật về CBPG ở nước ta còn rất nhiều tồn tại, thiếu sót như việc quy định chưa chi tiết, chưa phù hợp với các quy định của WTO, quá trình áp dụng chưa đạt được kết quả cao đã làm cho thực tiễn áp dụng pháp luật CBPG còn thấp, vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật CBPG. Vì vậy, thiết nghĩ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy định về vấn đề này chi tiết, hợp lý và có hiệu quả hơn, giúp cho các quy định về CBPG thực sự được phát huy hết chức năng của nó xứng đáng với vị trí, vai trò và tầm quan trọng trong hoạt động kinh tế ở nước ta hiện tại và trong tương lai.
Chống bán phá giá là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như kinh tế, khoa học pháp lý,v.v… Dưới góc độ pháp luật, CBPG là tổng hợp những quy định của WTO nói chung và quy định của Việt Nam nói riêng nhằm ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra trong hoạt động thương mại. Với chức năng trên CBPG đã góp phần hình thành nên môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong nền kinh tế thế giới nói chung và nước ta nói riêng, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa các quốc gia với nhau trong xu hướng cùng phát triển.
Thực tiễn ban hành và thực thi pháp luật về CBPG của WTO tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả, điều đó đã góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Bên cạnh những ưu điểm nổi bật, thì quy định về CBPG ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Công tác tổ chức thực hiện còn vướng mắc đã làm cho pháp luật về CBPG không được vận dụng và phát huy hết khả năng vốn có ở nước ta hiện nay.
- Bộ Thương mại – “Sổ tay về chống bán phá giá”;
- Bộ kế hoạch và đầu tư (2010), Báo cáo tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế sau ba năm Việt Nam gia nhập WTO;
- Chỉ thị số 20/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/06/2005 về việc Chủ động phòng, chống các vụ kiện thương mại quốc tế;
- Đại từ điển Trung Việt – Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam được Bộ Giáo dục và đào tạo phát hành vào năm 1999 Viện ngôn ngữ học. NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2002;
- Hiệp định GATT 1994, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại của tổ chức Thương mại thế giới WTO;
- Hiệp định chống bán phá giá của WTO hay còn gọi là Hiệp định về việc Thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994);
Xem thêm các bài viết: |

Tôi là Nguyễn Đình Long, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 3C– Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Website: https://luanvan3c.com/ – Hotline: 0966.736.325.
GẶP TƯ VẤN VIÊN
Bình chọn Quản trị chuỗi cung ứng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Quản trị chuỗi cung ứng Nếu các bạn cần thêm bài mẫu khóa […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Yếu tố tác động đến mức độ hợp tác trong chuỗi cung ứng. Trường hợp nghiên cứu: Công ty Frieslandcampina Việt Nam cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của khách hàng cá nhân về chất lượng dịch vụ của hệ thống siêu thị Saigon Co.op cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Các yếu tố tác động đến ý định chọn cơ quan hành chính Nhà nước để làm việc của sinh viên năm cuối ở các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh cho các bạn học […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Đo lường sự hài lòng về chất lượng dịch vụ đào tạo của sinh viên khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Ngoại ngữ-Tin học TP.HCM cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của các doanh nghiệp về dịch vụ kê khai thuế qua mạng tại Chi cục thuế quận 10 thành phố Hồ Chí Minh cho các bạn học viên đang […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Sự tác động của các yếu tố dịch vụ đến sự hài lòng và bất mãn của du khách đối với điểm đến thành phố Hồ Chí Minh cho các bạn học viên đang làm luận văn tham […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Xây dựng và phát triển thương hiệu của trường Cao đẳng sư phạm Trung ương cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận văn thạc sĩ […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quy luật mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như các bạn muốn […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác […]