Cơ sở lý luận về tranh chấp nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch
Cơ sở lý luận về tranh chấp nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Khái niệm tranh chấp nhãn hiệu, Phân loại tranh chấp, Chủ thể trong tranh chấp, Đối tượng của tranh chấp và Phương thức giải quyết tranh chấp. Nếu các bạn cần thêm bài mẫu khóa luận, luận văn thạc sĩ hay tài liệu tham khảo thì liên hệ với dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ luật kinh tế của Trung tâm Luận Văn 3C qua Zalo : 0966.736.325 để được tư vấn chi tiết nhất.
Nội dung chính
1. Khái niệm tranh chấp nhãn hiệu
Để nghiên cứu về tranh chấp sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch, đầu tiên cần phải tìm hiểu khái niệm về tranh chấp về sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu. Hiện nay, khái niệm tranh chấp về SHTT nói chung cũng như tranh chấp nhãn hiệu nói riêng chưa được xây dựng và ghi nhận chính thức trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam.
Từ các cơ sở lý luận đã nêu ở phần trên về nhãn hiệu, có thể thấy nhãn hiệu có bản chất pháp lý là một loại tài sản, và quyền sở hữu trí tuệ có đối tượng là các tài sản trí tuệ, trong đó có nhãn hiệu. Về bản chất, tài sản trí tuệ được hiệu là sự sáng tạo có tính tinh thần, không phải là vật theo quan niệm của luật dân sự nói chung và luật về vật quyền nói riêng. Tuy nhiên, tương tự với các quyền sở hữu được áp trên vật, quyền sở hữu trí tuệ cũng có tính loại trừ. Tính loại trừ trong sở hữu ở đây có nghĩa là sự độc quyền, quyền loại trừ những người khác. Điều này đồng nghĩa với việc không ai có thể tiếp cận nhãn hiệu nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu nhãn hiệu. BLDS 2015 cũng xác định quyền SHTT có cùng tính chất như các loại quyền tài sản khác. Bộ Luật này định nghĩa: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dung đất và các quyền tài sản khác”24
Luật SHTT 2015 phân loại quyền SHTT thành quyền tác giả, quyền SHCN, quyền đối với giống cây trồng25. Các quyền này sau đó được phân chia thành các nhóm quyền nhỏ hơn nhằm xác định căn cứ phát sinh quyền và thời điểm bảo hộ. Như đã đề cập ở phần trên, đối với nhãn hiệu, có hai căn cứ phát sinh quyền: một là quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký; hai là đã tiến hành sử dụng, không phụ thuộc và thủ tục đăng ký. Quyền đối với nhãn hiệu có hai thời điểm phát sinh: thời điểm thủ tục đăng ký được hoàn tất hoặc thời điểm nhãn hiệu đạt tới mức độ được sử dụng và thừa nhận rộng rãi hoặc đã trở thành nổi tiếng. Thông thường quyền loại trừ của chủ sở hữu đối với nhãn hiệu sẽ phát sinh trên cơ sở đăng ký nhãn hiệu. Ngoài ra, quyền này còn được phát sinh bởi pháp luật chẳng hạn như trong trường hợp nhãn hiệu đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi, nhãn hiệu nổi tiếng.
Như vậy, xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu có bản chất giống với vi phạm vật quyền sở hữu mà thực chất là vi phạm quyền loại trừ. Để bảo vệ quyền loại trừ, pháp luật cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng các chế tài đối với hành vi xâm phạm.
Tranh chấp, theo từ điển tiếng Việt, được hiểu theo nghĩa thông thường là “giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào” và “đấu tranh giằng co khi có
ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên”. Về mặt pháp lý, “Tranh chấp là những mâu thuẫn, bất hoà về quyền và nghĩa vụ hợp pháp giữa các chủ
thể tham gia vào một quan hệ pháp luật, trong đó có tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”26
Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định: những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm tranh chấp về quyền SHTT, trừ trường hợp vì mục đích lợi nhuận27; những tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm tranh chấp quyền SHTT giữa các cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận28. Như vậy, lợi nhuận chính là căn cứ để phân biệt một tranh chấp nhãn hiệu là tranh chấp dân sự hay tranh chấp thương mại. Trong ngành du lịch, với chức năng phân biệt hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ thể kinh doanh, nhãn hiệu chỉ có ý nghĩa khi hàng hóa dịch vụ được lưu thông hay đưa vào kinh doanh trên thị trường với mục tiêu đem lại lợi ích kinh tế cho chủ sở hữu. Do đó, các tranh chấp SHTT đối với nhãn hiệu trong du lịch đều có mục đích lợi nhuận và mang tính chất của tranh chấp thương mại.
Từ các nghiên cứu trên, có thể định nghĩa tranh chấp về SHTT liên quan đến nhãn hiệu là những mâu thuẫn, bất hòa và xung đột về quyền và lợi ích giữa hai hay nhiều chủ thể liên quan đến quyền SHTT đối với một hoặc nhiều nhãn hiệu phát sinh trong quá trình đăng ký hoặc sử dụng nhãn hiệu đó, mà một hoặc nhiều bên cho rằng việc đăng ký hoặc sử dụng nhãn hiệu của một tổ chức, cá nhân khác ảnh hưởng hoặc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Xem thêm: Cơ sở lý luận về tranh chấp nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch
2. Phân loại tranh chấp
Tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch, tương tự với tranh chấp nhãn hiệu trong các lĩnh vực khác, có thể được phân loại dựa trên một vài thành tố của quan hệ pháp luật.
Căn cứ vào thời điểm xác lập quyền, có thể phân loại tranh chấp nhãn hiệu thành:
– Tranh chấp trước khi xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu
– Tranh chấp liên quan đến xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu
– Tranh chấp sau khi quyền SHCN đối với nhãn hiệu đã được xác lập
Căn cứ vào chủ thể tranh chấp, tranh chấp nhãn hiệu được phân loại thành:
– Tranh chấp giữa chủ sở hữu nhãn hiệu với người thứ ba xâm phạm nhãn hiệu
– Tranh chấp giữa các bên trong quan hệ hợp đồng mà chủ sở hữu chuyển
nhượng hay cho phép sử dụng nhãn hiệu
Nhãn hiệu là một trong những chỉ dẫn thương mại quan trọng nhất và là một trong các đối tượng của quyền SHTT. Xuất phát từ lợi ích mà nhãn hiệu mang lại, trong quá trình xác lập quyền và sử dụng quyền, không chỉ phát sinh các tranh chấp giữa các nhãn hiệu với nhau mà còn xuất hiện nhiều trường hợp xung đột quyền, tranh chấp giữa: nhãn hiệu – kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu – chỉ dẫn địa lý; nhãn hiệu – tên thương mại; nhãn hiệu – hình tượng nhân vật thuộc phạm vụ bảo hộ quyền tác giải của người khác; nhãn hiệu – tên miền. Trong bối cảnh số lượng các doanh nghiệp lữ hành ngày càng tăng, tranh chấp về nhãn hiệu trong lĩnh vực này xuất hiện đa dạng và ngày càng có tính phức tạp cao. Một số vụ việc tranh chấp điển hình sẽ được chọn lọc và phân tích cụ thể tại chương thứ 2 của luận văn.
3. Chủ thể trong tranh chấp
Liên quan tới quyền SHCN đối với nhãn hiệu, chúng ta có thể thấy các quan hệ cơ bản giữa các chủ thể gồm:Quan hệ giữa chủ sở hữu nhãn hiệu với các chủ thể kinh doanh khác; Quan hệ của chủ sở hữu nhãn hiệu với những người được phép sử dụng nhãn hiệu; Quan hệ giữa người sáng tạo ra nhãn hiệu với chủ sở hữu nhãn hiệu
Các chủ thể trong mối quan hệ thứ ba không liên quan đến chức năng của nhãn hiệu là tạo nên lợi nhuận cho chủ sở hữu nhãn hiệu, cũng như không liên quan tới mục đích nghiên cứu của luận văn. Các chủ thể trong tranh chấp nhãn hiệu sẽ tranh chấp về việc ai có quyền được loại trừ hay người có quyền loại trừ đã tự giới hạn quyền của mình như thế nào thông qua các điều kiện của hợp đồng.
Chủ thể trong tranh chấp về SHTT đối với nhãn hiệu trong du lịch thường là hai doanh nghiệp. Các tranh chấp về SHTT đối với nhãn hiệu trong du lịch có thể xảy ra giữa hai hay nhiều doanh nghiệp khác nhau, thường là các đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực. Do tranh chấp nhãn hiệu có tính “đa quốc gia” và có thể phát sinh từ các mối quan hệtrải rộng trên nhiều quốc gia khác nhau, do các chủ thể có thể có trụ sở tại các quốc gia khác nhau, địa điểm xảy ra tranh chấp có thể cùng một lúc tại nhiều vùng trên thế giới.
4. Đối tượng của tranh chấp
Đối tượng của tranh chấp về SHTT đối với nhãn hiệu trong du lịch là quyền và lợi ích giữa hai hay nhiều chủ thể liên quan đến quyền SHTTđối với một hoặc nhiều nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch. Nhãn hiệu với bản chất là tài sản vô hình, tồn tại dưới dạng thông tin, có khả năng lan truyền, do đó có thể bị xâm phạm bởi nhiều chủ thể khác nhau, diễn ra cùng lúc, cùng địa điểm hoặc tại nhiều thời điểm, địa điểm khác nhau, thậm chí không chỉ là trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Bảo vệ nhãn hiệu dưới dạng quyền tài sản khó khăn phức tạp và thiếu rõ ràng hơn so với các quyền tài sản khác. Sự xâm phạm với tài sản hữu hình dễ dàng được nhận biết thông qua hành vi chiếm hữu bất hợp pháp hoặc giá trị sử dụng bị ảnh hưởng hoặc là thiệt hại giá trị trao đổi, hoặc thậm chí là tài sản bị tiêu biến. Thiệt hại của chủ sở hữu tài sản hữu hình có thể được xác định thông qua các công cụ định giá. Trong khi đó, rất phức tạp để xác định liệu một nhãn hiệu có đang bị xâm phạm hay không, cũng như để tính được mức độ, phạm vi thiệt hại của chủ sở hữu nhãn hiệu. Đặc biệt là với các các doanh nghiệp du lịch phát triển dựa vào uy tín, việc bị xâm phạm nhãn hiệu sẽ đem lại những hậu quả vô cùng lớn đối với hoạt động kinh doanh.
Để đánh giá mức độ xung đột giữa các nhãn hiệu từ đó rút ra được mức độ ảnh hưởng, xâm phạm đối với nhãn hiệu khác, cần đánh giá xem xét mức độ trùng hoặc tương tự giữa các nhãn hiệu tranh chấp theo hai phương diện chính của nhãn hiệu đó là dấu hiệu và sản phẩm dịch vụ được gắn dấu hiệu đó. Đồng thời, một cơ sở quan trọng không kém khi xem xét một tranh chấp nhãn hiệu đó là nhận thức của người tiêu dùng về việc phân biệt được các nhãn hiệu khác nhau của các tổ chức khác nhau. Ví dụ như đối với nhãn hiệu nổi tiếng, được biết đến rộng rãi thì khó nhầm lẫn hơn những nhãn hiệu mới, chưa được biết đến rộng rãi.
5. Phương thức giải quyết tranh chấp
5.1. Phân loại các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu
Theo quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam, mà cụ thể là trong Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp về quyền sở hữu là tranh chấp dân sự. Các tranh chấp này không có các phương thức giải quyết ngoài tòa án phong phú và linh động như đối với tranh chấp thương mại. Mặc dù tranh chấp nhãn hiệu là tranh chấp về quyền sở hữu nhưng Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã có sự phân biệt giữa tranh chấp quyền SHTT, chuyển giao công nghệ với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản nói chung. Đối với tranh chấp quyền SHTT, chuyển giao công nghệ mà các bên đều nhằm mục đích lợi nhuận, Bộ luật này sẽ coi là tranh chấp thương mại.
Như đã phân tích ở trên, nói chung, khó có thể xác định một tranh chấp liên quan đến xâm phạm nhãn hiệu có liên quan đến mục tiêu lợi nhuận hay không. Nhưng nếu xét về chức năng của nhãn hiệu trong hoạt động kinh doanh du lịch, đây là phương tiện để phân biệt dịch vụ do thương nhân cung cấp trên thị trường nhằmmục tiêu lợi nhuận. Do đó, luận văn sẽ xét tranh chấp nhãn hiệu như là một tranh chấp thương mại, và các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu cũng sẽ tương tự như phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Các tranh chấp thương mại có tính chất của tranh chấp trong lĩnh vực luật tư – luật điều tiết quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng với nhau và có quyền tự do định đoạt, tự thỏa thuận. Chính vì vậy, tranh chấp nhãn hiệu có thể giải quyết bằng các phương thức của luật tư và chủ thể có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Trên thế giới, ngoài các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu thông qua nhà nước, các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu phi nhà nước cũng rất phong phú. Có lẽ Hoa Kỳ là quốc gia xây dựng hệ thống các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án phong phú nhất bởi đây là khởi nguồn của thuật ngữ Alternative Dispute Resolution (giải quyết tranh chấp ngoài tòa án). Tại Hoa Kỳ, ADR được quan niệm là bất kỳ một cách thức chính thức hay bán chính thức nào (khác với tố tụng tại tòa án) được sử dụng để giải quyết một tranh chấp kinh doanh. Hai loại xét xử ngoài tòa án phổ biến nhất tại Hoa Kỳ là trọng tài và hòa giải, cả hai loại có thể được chia nhỏ thành các biến thể khác nhau:29
Arbitration (Trọng tài): Xét xử trọng tài sử dụng sự can thiệp của bên thứ ba trung lập và tương tự như một phiên tòa không chính thức. Sau khi nghe lập luận của các bên, bên thứ ba đưa ra quyết định rằng các bên tranh chấp có thể đồng ý ràng buộc hoặc không ràng buộc. Khi ràng buộc, quyết định có thể được thi hành bởi một tòa án và được coi là quyết định cuối cùng. Mặc dù trọng tài là người hỗ trợ tích cực và sẽ là người đưa ra quyết định cuối cùng, quá trình phân xử trọng tài vẫn không thể so sánh được với một phiên tòa chính thức do nhiều quy tắc về chứng cứ không được áp dụng
Mediation (Hòa giải):Phương thức giải quyết tranh chấp hòa giải và trọng tài có một số điểm tương đồng. Một trong những khác biệt chính là bên hòa giải, hoặc bên thứ ba khách quan, không thể buộc các bên đồng ý và không được phép quyết định kết quả của tranh chấp. Hòa giải viên làm việc với các bên để đưa ra giải pháp được thực hiện lẫn nhau và các thỏa thuận thường không ràng buộc. Tòa án có thể yêu cầu hòa giải là bắt buộc, nhưng bản thân quá trình này vẫn là tự nguyện, do đó cho phép các bên từ chối đi đến thỏa thuận. Trong khi hòa giải, các bên duy trì sự kiểm soát đáng kể đối với quá trình này. Hòa giải là hoàn toàn bí mật và, vì nó không ràng buộc, các bên vẫn có quyền theo đuổi kiện tụng theo quy trình hòa giải;
Med-Arb (Hòa giải-Trọng tài): Hình thức ADR này trọng tài sẽ bắt đầu với tư cách là người hòa giải, nhưng, nếu hòa giải thất bại, trọng tài viên sẽ đưa ra quyết định ràng buộc. Med-arb là một hỗn hợp của hòa giải và trọng tài lấy từ lợi ích của hai bên;
Tiểu xét xử (Mini Trial): Đây là một phương pháp ADR độc đáo, vì nó thường xuất hiện sau khi kiện tụng chính thức, trái ngược với trước đây. Tiểu xét xử là một quá trình giải quyết nơicác bên trình bày các lập luận của mình. Vào cuối phiên tiểu xét xử, các đại diện cố gắng giải quyết vấn đề. Nếu các bên không thể giải quyết vấn đề, một bên thứ ba có thể đóng vai trò trung gian hòa giải hoặc tuyên bố ý kiến không ràng buộc về kết quả có thể xảy ra của vấn đề đang được đưa ra xét xử.
Giải quyết tranh chấp thông qua xét xử bởi bồi thẩm đoàn giản lược (Summary Jury Trial): Phương thức giải quyết tranh chấp này tương tự như tiểu xét xử. Tuy nhiên, vụ việc được trình bày trước bồi thẩm đoàn và bồi thẩm đoàn sẽ đưa ra khuyến nghị cho các bên. Ngoài ra, đó là lệnh của tòa án chứ không phải các bên. Sau phiên xét xử, tòa án thường yêu cầu các bên ít nhất phải cố gắng giải quyết trước khi kiện tụng.
Đàm phán (Negotiation): Trong đàm phán, không có bên thứ ba khách quan để hỗ trợ các bên trong cuộc đàm phán, vì vậy các bên làm việc cùng nhau để đi đến thỏa hiệp. Các bên có thể không xuất hiện trực tiếp, mà thay vào đó luật sư sẽ đại diện cho các bên trong cuộc đàm phán.
Có thể thấy các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án tại Hoa Kỳ phong phú hơn các phương thức trong luật thương mại Việt Nam. Luật thương mại 2005 xây dựng ba phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án bao gồm thương lượng, hòa giải và trọng tài30.
Việc phân loại các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu sẽ dựa vào các căn cứ sau: có bên thứ ba tham dự vào việc giải quyết tranh chấp hay không; nhà nước có hay không tham dự vào việc giải quyết tranh chấp; căn cứ thiết lập phương thức giải quyết tranh chấp; bản chất pháp lý của kết quả giải quyết tranh chấp.
Nếu theo căn cứ đầu tiên, thì chỉ có giải quyết tranh chấp bằng thương lượng là không có sự tham dự của bên thứ ba. Có nghĩa là các bên không cần tới sự giúp đỡ của bên thứ ba để giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, tất cả các phương thức giải quyết tranh chấp khác đều cần thiết có sự tham dự của bên thứ ba và tùy thuộc vào bên thứ ba là ai (nhànước hay phi nhà nước), người ta lại phân loại thành:
– Phương thức có sự tham dự của nhà nước vào việc giải quyết tranh chấp, bao gồm: giải quyết tranh chấp bằng tòa án, giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan hành chính nhà nước
– Phương thức giải quyết tranh chấp không có sự tham dự của nhà nước, bao gồm: giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải, tiểu xét xử, xét xử bởi bồi thẩm đoàn
giản lược, trọng tài, hòa giải trọng tài, xét xử tư.
Nếu phân loại dựa trên căn cứ thiết lập phương thức giải quyết tranh chấp chấp mà không kể tới có hay không có sự tham dự của bên thứ ba, các phương thức giải quyết tranh chấp sẽ được chia thành:
– Phương thức giải quyết tranh chấp được thiết lập bởi luật bao gồm giải quyết tranh chấp bằng tòa án và giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan hành chính nhà nước
– Phương thức giải quyết tranh chấp được thiết lập bởi hợp đồng bao gồm tất cả các phương thức giải quyết tranh chấp còn lại.
Nếu căn cứ vào bản chất pháp lý của kết quả giải quyết tranh chấp, các phương thức giải quyết tranh chấp được chia thành:
– Các phương thức có kết quả giải quyết tranh chấp là phán quyết của bên thứ ba bao gồm giải quyết tranh chấp bằng tòa án, giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan hành chính nhà nước, giải quyết tranh chấp thông qua tiểu xét xử, giải quyết tranh chấp thông qua xét xử bởi bồi thẩm đoàn giản lược, giải quyết tranh chấp thông qua
trọng tài, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trọng tài, và giải quyết tranh chấp bằng xét xử tư
– Các phương thức có kết quả giải quyết tranh chấp là hợp đồng bao gồm giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
Việc phân loại phương thức giải quyết tranh chấp như trên không chỉ có ý nghĩa trong việc thiết lập các quy chế pháp lý liên quan tới từng phân loại mà còn đóng vai trò trong việc xác định các ưu điểm và hạn chế của từng phương thức giải quyết tranh chấp, từ đó giúp các bên trong tranh chấp lựa chọn được phương thức giải quyết tranh chấp thích hợp. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của tranh chấp nhãn hiệu và giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch tại Việt Nam, trong luận văn tác giả sẽ nghiên cứu theo phân loại phương thức giải quyết tranh chấp bằng cơ quan nhà nước và ngoài cơ quan nhà nước.
5.2. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch bằng cơ quan nhà nước
Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng các cơ quan nhà nước là phương thức giải quyết tranh chấp quan trọng và không thể thiếu. Có thể lý giải về sự cần thiết của phương thức giải quyết này như sau: (1) trải qua hơn 40 năm trong thời kỳ kinh tế xã hội chủ nghĩa, tâm lý dựa vào nhà nước của người dân không dễ gì xóa bỏ được; (2) các bên tranh chấp chưa có nhiều thông tin và sự tin tưởng vào phương thức giải quyết tranh chấp ngoài nhà nước; (3) các bên phó mặc giải quyết tranh chấp cho nhà nước vì cho là an toàn nhất; và (4) pháp luật chưa cung cấp được khuôn khổ pháp lý và mô hình pháp lý cho các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài nhà nước. Tổ chức SHTT thế giới đã khẳng định để thiết lập một hệ thống toàn diện và chi tiết nhằm bảo vệ quyền SHTT và phổ biến các thông tin liên quan, không thể không hỗ trợ cho các chủ sở hữu quyền thi hành các quyền của mình một cách hiệu quả trong một thế giới mà việc mở rộng công nghệ đã tạo điều kiện cho việc vi phạm các quyền được bảo hộ tới mức độ chưa từng có tiền lệ cho tới nay. Vì vậy, trong bối cảnh yếu tố quốc tế của SHTT ngày càng trở nên mạnh mẽ và toàn cầu hóa là xu thế tất yếu, việc xây dựng được mục tiêu, nguyên tắc giải quyết tranh chấp là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho chủ sở hữu tài sản trí tuệ thi hành được các quyền của mình trên thực tế.
Bên cạnh đó, cũng cần xét về việc giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch của các cơ quan hành chính, bởi tranh chấp nhãn hiệu cốt lõi là tranh chấp liên quan tới quyền loại trừ của luật tư. Tuy nhiên, khác với các tài sản vô hình thông thường, đối tượng của quyền SHTT nói chung và nhãn hiệu nói riêng chủ yếu tồn tại dưới dạng thông tin. Chính vì vậy, chúng luôn tiềm ẩn nguy cơ bị cóp nhặt, sao chép vả vật chất hóa hàng loạt. Ở một số khía cạnh nhất định và trong một số trường hợp nhất định, hành vi vi phạm quyền đối với nhãn hiệu có thể coi là vi phạm luật công, nhất là luật hành chính. Cụ thể, hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu gây ra những hậu quả sau:
– Gây suy giảm thị phần, lợi nhuận của doanh nghiệp đồng thời đánh mất niềm tin của khách du lịch đối với dịch vụ mà chủ sở hữu nhãn hiệu cung cấp.
– Gây thiệt hại cho người tiêu dùng khi sử dụng dịch vụ có chất lượng không đúng như kỳ vọng trong khi vẫn phải trả khoản chi phí tương đương với dịch vụ đúng
nhãn hiệu. Ví dụ như ở một khách sạn trùng tên với khách sạn nổi tiếng, phải trả một mức giá cao nhưng mức dịch vụ lại không tương xứng. Hoặc một doanh nghiệp lữ hành có nhãn hiệu gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của một doanh nghiệp nổi tiếng để lừa dối người tiêu dùng, bán các tour không chất lượng hoặc thậm chí lừa đảo, cầm tiền và biến mất,…Điều này gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của khách du lịch, xâm phạm thương mại công bằng, cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế. Nói cách khác, xâm phạm nhãn hiệu còn là hành vi xâm phạm trật tự, lợi ích công cộng đang được Nhà nước bảo vệ.
– Cản trở sự phát triển của ngành kinh tế nói chung và của ngành du lịch nói riêng. Các hành vi xâm phạm đến nhãn hiệu của các doanh nghiệp trong ngành du lịch sẽ tạo ấn tượng xấu về du lịch Việt Nam trong mắt khách du lịch trong nước và cả
quốc tế, ảnh hưởng đến uy tín của thương hiệu du lịch Việt Nam mà chúng ta đã xây dựng bao năm nay.
Như vậy, ngoài việc xâm phạm quyền lợi tư, vi phạm quyền đối với nhãn hiệu cũng ảnh hưởng quyền lợi công. Do đó, nhà nước cần có sự can thiệp sâu hơn trong việc xử lý các vi phạm này để bảo vệ quyền lợi công. Từ đó, các biện pháp hành chính, biện pháp hình sự trong việc bảo vệ quyền SHTT nói chung và quyền nhãn hiệu nói riêng đã được thiết lập. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng cơ quan nhà nước không chỉ bảo vệ quyền lợi của người thứ ba và lợi ích chung của xã hội mà thông qua đó còn gián tiếp bảo vệ quyền nhãn hiệu của chủ sở hữu.
Là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn được đặt ra bởi Hiệp định TRIPS (WTO Agreement on Trade – Related Aspects of Intellectual Property Rights – Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ). Các tiêu chuẩn tối thiểu là định trong Hiệp định này nhằm bảo đảm mỗi thành viên có hệ thống quy định về SHTT đầy đủ, hiệu quả. Các tiêu chuẩn này có tính áp dụng bắt buộc đối với tất cả các thành viên của WTO. Theo các quy định tại Hiệp định TRIPS, các thành viên phải bảo đảm rằng các thủ tục thực thi quyền phải được quy định trong luật quốc gia của mình để tạo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền SHTT, trong đó có những biện pháp chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vị xâm phạm và những biện pháp chế tài nhằm ngăn chặn không để các hành vi xâm phạm tiếp diễn. Các thủ tục đó phải được áp dụng theo cách thức nhằm tránh tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động thương mại hợp pháp và nhằm quy định các biện pháp bảo đảm cho các thủ tục đó không bị lạm dụng.
Hiệp định TRIPS cũng quy định các tiêu chuẩn cụ thể đối với việc sử dụng các biện pháp dân sự và hành chính trong việc thực thi quyền SHTT mà các quốc gia thành viên WTO phải tuân thủ31. Thêm vào đó, các quốc gia thành viên WTO cũng có nghĩa vụ xây dựng các quy định liên quan đến SHTT trong luật hình sự và tố tụng hình sự, trong các trường hợp như cố tình giả mạo nhãn hiệu hàng hóa hoặc xâm phạm bản quyền với quy mô thương mại.
Từ đó có thể thấy, việc áp dụng phương pháp giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch bằng cơ quan nhà nước là cần thiết, phù hợp với yêu cầu đặt ra của thực tế cũng như tuân thủ các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Phương thức giải quyết tranh chấp này có thể tại Tòa án hoặc ngoài Tòa án (biện pháp hành chính).
Với phương thức giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan hành chính nhà nước, chủ thể giải quyết tranh chấp trong là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. Tùy thuộc vào tổ chức bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, việc trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp nhãn hiệu cho cơ quan hành chính ở từng nước có khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung giữa các quốc gia là quyết định của các cơ quan này chỉ mang tính chất là các quyết định hành chính mặc dù công chức hành chính trong lĩnh vực này có phần nào chức năng xét xử. Trình tự, thủ tục của việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế này được tiến hành bắt đầu bằng tiếp nhận đơn phản đối, đề nghị hủy bỏ hiệu lực hoặc khiếu nại về việc xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tiếp sau đó là xem xét tài liệu chứng minh, tranh luận và ra quyết định, trong đó có thể đưa ra các chế tài cụ thể đối với hành vi vi phạm. Chế tài được đưa ra trong quyết định này là các chế tài hành chính.
Với phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án, tranh chấp sẽ được giải quyết theo tố tụng hình sự hay tố tụng dân sự. Các tranh chấp nhãn hiệu tại tòa án trong lĩnh vực du lịch hầu như sẽ được giải quyết theo tố tụng dân sự. Những trường hợp có dấu hiệu phạm tội mới được giải quyết theo vụ án hình sự. Tuy nhiên, tại một số quốc gia, các chế tài dân sự, thương mại được áp dụng trong vụ án dân sự nhưng cũng có thể được áp dụng trong phần dân sự của một vụ án hình sự. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tòa án không thể không đề cập tới biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt và được tiến hành theo một thủ tục khác biệt. Các biện pháp này có thể được thực hiện khi có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được hoặc để bảo toàn chứng cứ về hành vi xâm phạm hoặc để chống lại tình trạng tẩu tán hay phá hủy hàng hóa xâm phạm.
Cụ thể, theo quy định tại luật Việt Nam, với tranh chấp nhãn hiệu nói chung phát sinh trong giai đoạn xác lập quyền, “kể từ ngày đơn đăng ký SHCN được công bố trên Công báo SHCN đến trước ngày ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyển có ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về quyền SHCN về việc cấp hoặc không cấp văn bằng bảo hộ dối với đơn đó. Ý kiến phải được lập thành văn bản kèm theo các tài liệu hoặc trích dẫn nguồn thông tin dể chứng minh”32
Ngoài ra, văn bằng bảo hộ có thể bị chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực trên cơ sở ý kiến của các cơ quan, tổ chức. Việc giải quyết ý kiến phản đối và yêu cầu chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực thuộc thấm quyền của Cục SHTT. Điều này đồng nghĩa với việc Cục SHTT – cơ quan xác lập quyển – cũng đồng thời được trao nhiệm vụ giải quyết tranh chấp.
Trong giai đoạn sử dụng quyền, tranh chấp nhãn hiệu chủ yếu phát sinh từ hành vi xâm phạm quyền. Trong khi đó, LSHTT 2005 không để cập tới tranh chấp nhãn hiệu mặc dù đã dành một phần riêng (phần thứ năm) gồm ba chương quy định về bảo vệ quyền SHTT. Trong đó, thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT được giao cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau. Các cơ quan này có khả năng bao quát tất cả các biện pháp thực thi quyền SHTT theo các khuyến nghị quốc tế tuy nhiên chỉ được thực hiện các biện pháp xử lý đúng với nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan. Cụ thể, các biện pháp thực thi quyền SHTT mà từng cơ quan có thẩm quyền áp dụng bao gồm:
– Tòa án: biện pháp dân sự, hình sự hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời
– Cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp: biện pháp hành chính, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính
– Cơ quan Hải quan: biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
Tranh chấp nhãn hiệu, theo phân tích tại phần trên, là tranh chấp dân sự, tranh chấp thương mại nên về nguyên tắc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phải là Tòa án. Tuy nhiên, việc không quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp SHTT trong luật chuyên ngành cùng với việc liệt kê một hệ thống các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm đã đồng nghĩa với việc pháp luật trao cho thương nhân quyền tự do lựa chọn các cơ quan giải quyết tranh chấp khi bị xâm phạm quyền, bao gồm cả Thanh tra, Công an, Quân lý thị trường, Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp. Phạm vi xử lý bằng biện pháp hành chính rất rộng và có thể giao thoa với các biện pháp dân sự, chỉ cần hành vi “xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại cho chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội” là có thể áp dụng biện pháp này33. Theo Điều 4, khoản 1 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LSHTT bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT, việc xử lý bằng biện pháp dân sự có thể được áp dụng trong khi đang xử lý bằng biện pháp hành chính hay hình sự theo yêu cầu của người bị hại hoặc chủ sở hữu quyển SHTT và phải tuân thủ luật tố tụng dân sự. Điều đó cho thấy hành vi xâm phạm quyền SHTT có thể phải gánh chịu nhiều chế tài khác nhau của các cơ quan nhà nước được áp dụng bởi nhiều trình tự, thủ tục tại một thời điểm.
Điều 214 LSHTT năm 2005 quan niệm biện pháp hành chính theo nghĩa hẹp, bao gồm các hình thức xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền nhãn hiệu và biện pháp khắc phục hậu quả. Xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính là một nét đặc thù, khác với thực thi các quyền tài sản khác bởi các quyền tài sản khác dễ dàng hơn trong việc buộc chấm dứt hành vi vi phạm và xác định giá trị. Thêm vào đó, việc xử lý vi phạm quyền nhãn hiệu đòi hỏi sự đa dạng của các chế tài mà cơ quan hành chính khó có khả năng thực hiện, ví dụ như tuyên một hợp đồng liên quan vô hiệu, buộc bồi thường thiệt hại, khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra. Nghị định 99/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 08 năm 2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN xác định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc về các cơ quan thanh tra các bộ ngành, địa phương và quản lý thị trường. Các vi phạm thông thường được phát hiện qua thanh tra, kiểm tra và những khiếu nại của người dân và người có quyền đổi với nhãn hiệu.
Tuy vậy, biện pháp hành chính được sử dụng trong giải quyết tranh chấp nhãn hiệu không hoàn toàn mang tính hành chính mà vẫn mang tính dân sự, thể hiện ở một số khía cạnh như:
– Xử phạt vi phạm hành chính đối với xâm phạm quyền SHTT nói chung, xâm
phạm nhãn hiệu nói riêng, ngoài hai chủ thể là cơ quan nhà nước và bên vi phạm, luôn có sự tham gia của chủ thể quyền với vai trò vô cùng quan trọng. Việc xử lý vi phạm hành chính đối với xâm phạm nhãn hiệu chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của chủ thể quyền
– Khi cơ quan thực thi hành chính đang xử lý mà các bên thỏa thuận được và yêu cầu dừng thì việc xử lý xâm phạm chấm dứt.
Tóm lại, việc giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng các cơ quan hành chính ở nước ta khá phố biến song tính pháp lý còn chưa rõ ràng và được giao cho nhiều cơ quan khác nhau với các vụ việc khác biệt về tính chất. Vì vậy, khó có thể xem đây là một cơ chế giải quyết tranh chấp có nền tăng lý luận cũng như thực tiễn thống nhất.
5.3. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch ngoài cơ quan nhà nước
Giải quyết tranh chấp ngoài cơ quan nhà nước (giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp thay thế) là một trong những nội dung của quyền tự do định đoạt trong các quan hệ tư. Phương pháp giải quyết tranh chấp thay thế được coi là một cách thức tiếp cận công lý mới, tập trung vào giải quyết xung đột cho các bên để giải quyết tranh chấp thay vì tập trung vào kết quả cuối cùng là phán quyết của tòa án, tạo môi trường cho các bên cùng nhau thỏa thuận giải quyết xung đột. Trong thực tiễn, tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch chủ yếu là các tranh chấp mang tính thương mại, do đó việc giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng các biện pháp không phải do cơ quan nhà nước tiến hành là yêu cầu khách quan.
Các phương thức giải quyết tranh chấp khác ngoài các cơ quan nhà nước đã tồn tại tất yếu và lâu đời, cần phải được thừa nhận, củng cố và cải tiến cho phù hợp với thực trạng xã hội ngày nay. Đây được coi là phương thức giải quyết tranh chấp bổ sung, thay thế quan trọng cho các phương thức giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan nhà nước. Hiện nay, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế , các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước đã phát triển đa dạng, phong phú.
Pháp luật của từng quốc gia đã ghi nhận những phương thức nhất định tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Đây là những phương thức xuất phát từ quyền tự do ý chí, có nghĩa là do các bên tranh chấp có quyền tự lựa chọn hoặc thiết lập.
Tuy rằng trên thế giới các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước rất phong phú và linh động song việc sử dụng các phương thức đó tại một quốc gia còn phải phụ thuộc vào sự thừa nhận của pháp luật đối với một hoặc nhiều phương thức cụ thể; sự hỗ trợ của pháp luật trong việc cho thi hành các kết quả giải quyết tranh chấp; văn hóa pháp lý và văn hóa kinh doanh tại nước đó; và sự công tâm, trình độ của các công chức nhà nước và thẩm phán. Tại Việt Nam hiện nay, pháp luật chỉ công nhận những biện pháp mang tính phổ biến nhất như thương lượng, hòa giải, trọng tài. Căn cứ vào hình thức pháp lý thể hiện kết quả giải quyết tranh chấp, các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước được phân chia thành hai loại. Trong đó, các phương thức giải quyết tranh chấp theo cơ chế tự giải quyết giữa hai bên, bao gồm: thương lượng, hòa giải; các phương thức giải quyết tranh chấp theo cơ chế xét xử ngoài nhà nước, có kết quả là các phán quyết, bao gồm: trọng tài.
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp đơn giản và sơ khai nhất, hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp. Các bên trong tranh chấp tự thỏa hiệp với nhau mà không cần sự trợ giúp của bên thứ ba.
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp thường gặp khi các bên gặp phải những vướng mắc nhất định mà khó có thể tự tổ chức thương lượng hoặc có mong muốn giải quyết tranh chấp theo cách khách quan hơn nên cần tới sự trợ giúp của bên thứ ba. Tuy nhiên, quá trình tiến hành hòa giải của bên thứ ba phải hành động phù hợp với mong muốn và quy tắc của các bên tranh chấp. Bên thứ ba có nhiệm vụ giúp các bên tìm kiếm và lựa chọn giải pháp giải quyết tranh chấp và không ra phán quyết. Theo các nhà nghiên cứu, hòa giải có nhiều mức độ, với những tên gọi khác nhau, chẳng hạn trung gian (mediation) và hòa giải (conciliation). Theo đó, trung gian thuộc về giải pháp hỗ trợ, giúp các bên giải quyết xung đột với quy trình bảo đảm tranh luận công bằng, tôn trọng lẫn nhau và khuyến khích các bên cùng nhau đưa ra giải pháp giải quyết tranh chấp; trong khi đó, hòa giải là biện pháp mang tính chỉ dẫn, tuân thủ pháp luật và can thiệp nhiều hơn so với trung gian bằng cách tư vấn cho các bên về nội dung của tranh chấp, các yếu tố pháp lý, các tình huống của tranh chấp và các kết quả phù hợp của tranh chấp.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp quen thuộc trên thế giới và ở Việt Nam. Phương thức giải quyết tranh chấp này được ví như một bản sao của tòa án nhưng do tư nhân tiến hành dựa trên tinh thần tự nguyện của các bên tranh chấp. Phán quyết của trọng tài đưa ra có tính chất ràng buộc. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đối với một tranh chấp cụ thể được thiết lập bởi thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng giữa các bên, có nghĩa là các bên ràng buộc nhau rằng khi phát sinh tranh chấp thì phải đưa giải quyết tại cơ quan trọng tài. Bên cạnh đó, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ cũng có thể khởi kiện ra trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp đối với nhãn hiệu của mình. Vì vậy, tranh chấp nhãn hiệu bất kể xuất phát từ hợp đồng hay ngoài hợp đồng đều có thể được xét xử bởi trọng tài thương mại.
Tại Việt Nam hiện nay, chưa có một đạo luật chung về các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước. Các phương thức giải quyết tranh chấp này được quy định rải rác tại các văn bản pháp luật khác nhau. Cụ thể, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị cũng đã khẳng định: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”. Điều 9 Luật SHTT cũng có quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền SHTT của mình và có trách nhiệm tôn trọng quyền SHTT của tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật”. Hay Điều 317 Luật Thương mại cũng ghi nhận thương lượng, hoà giải, trọng tài và toà án là các phương thức giải quyết tranh chấp đối với các tranh chấp mang bản chất thương mại.
Với phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch gồm thương lượng và hòa giải, cho đến thời điểm hiện tại, pháp luật Việt Nam hiện hành hầu như mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận thương lượng, hòa giải là các phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu mà không các văn bản quy định cụ thể cơ chế giải quyết, quy trình, thủ tục, nội dung, hiệu lực của các phương thức này. Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng hòa giải cũng có quy định ở một số văn bản pháp luật nhưng lại chỉ giới hạn đối với hoạt động hòa giải trong tố tụng tòa án, tố tụng trọng tài và hòa giải các tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư. Điều 12 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về nguyên tắc hòa giải: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự”. Điều 11 Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên như sau: “các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại…”. Thương lượng, hòa giải cũng được khuyến khích sử dụng trong giai đoạn tố tụng trọng tài khi các bên giải quyết tranh chấp qua trọng tài theo quy định tại Điều 9 Luật Trọng tài thương mại 2010: “Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp”. Trường hợp hai bên hòa giải thành thì hội đồng trọng tài lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các bên và xác nhận của các Trọng tài viên. Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Quyết định này là chung thẩm và có giá trị như phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, hòa giải ở Việt Nam hiện nay vẫn còn đang trong quá trình tự phát, chưa có luật điều chỉnh mà mới chỉ có Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) xây dựng và ban hành Quy tắc hòa giải áp dụng cho các bên có nguyên vọng thực hiện hòa giải độc lập thông qua VIAC.
Cụ thể hóa trong Luật SHTT, pháp luật tạo điều kiện cho các bên có cơ hội thỏa thuận với nhau qua thương lượng hoặc hòa giải trong các tranh chấp xác lập quyền nhãn hiệu rồi mới đưa ra quyết định cuối cùng34.
Với phương thức giải quyết tranh chấp nhãn hiệu trong du lịch bằng trọng tài thương mại, theo quy định tại Điều 198 Luật SHTT, chủ thể quyền nhãn hiệu có quyền khởi kiện ra trọng tài để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chưa có một văn bản pháp luật chuyên ngành về SHTT đề cập đến các quy định về giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng phương thức trọng tài. Nếu các doanh nghiệp lữ hành muốn giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng trọng tài thì phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật Trọng tài thương mại 2010. Trong khi đó, Luật trọng tài thương mại 2010 không thiết kế riêng cho giải quyết tranh chấp SHTT mà là quy định chung áp dụng cho tất cả các tranh chấp và cũng chỉ giới hạn các trong các tranh chấp thương mại. Do đó, việc thiết lập một hệ thống giải quyết tranh chấp nhãn hiệu nói riêng và SHTT nói chung thông qua trọng tài là cần thiết để đáp ứng được nhu cầu thực tế cũng như tận dụng được các điểm ưu việt mà phương thức này mang lại.
Bài viết Cơ sở lý luận về tranh chấp nhãn hiệu trong lĩnh vực du lịch được Luận Văn 3C tổng hợp để hỗ trợ các bạn dùng tham khảo khi viết bài, nếu bạn cần hỗ trợ bạn có thế liên hệ và sử dụng dịch vụ hỗ trợ luận văn của chúng tôi để được tư vấn hỗ trợ tốt nhất!
Tôi là Nguyễn Đình Long, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 3C– Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Website: https://luanvan3c.com/ – Hotline: 0966.736.325.
GẶP TƯ VẤN VIÊN
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học duy vật và triết học duy tâm ở Hy Lạp thời cổ đại đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quy luật mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như các bạn muốn […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu […]
Bình chọn Các loại thuế cơ bản đối với hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Các loại thuế cơ bản đối với hộ […]
Bình chọn Phân loại hộ kinh doanh theo quy định pháp luật thuế giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Phân loại hộ kinh doanh theo quy […]
Bình chọn Cơ sở lý luận về pháp luật thuế đối với hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Cơ sở lý luận về […]
Bình chọn Khái quát chung về hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Khái quát chung về hộ kinh doanh Nếu các bạn cần thêm […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ luật kinh tế Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch mua bán hàng hóa trên sàn Thương mại điện tử cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên […]
Bình chọn Trình tự thủ tục chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Trình tự thủ tục chào bán trái […]
Bình chọn Phương thức tiến hành hoạt động chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Phương thức tiến hành hoạt […]
Bình chọn Điều kiện và nguyên tắc tiến hành hoạt động chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Điều kiện […]