Cơ sở lý luận về ODA
Cơ sở lý luận về ODA giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành tài chính kinh tế quốc tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Cơ sở lý luận về ODA. Nếu các bạn cần thêm bài mẫu khóa luận, luận văn thạc sĩ hay tài liệu tham khảo.
==> Dịch Vụ Viết luận văn thạc sĩ kinh tế quốc tế – Bảng giá 20234
Nội dung chính
1. Sự ra đời của ODA
Viện trợ nước ngoài hay Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance, ODA) là một hoạt động kinh tế quốc tế khá nổi bật từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù thời gian hoạt động chưa lâu, song bản chất của nó lại không đơn thuần là những vấn đề kinh tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước bị tàn phá nặng nề về kinh tế mà chủ yếu là các nước Châu Âu. Trong khi đó, nước Mỹ không những không bị suy sụp bởi chiến tranh mà còn giàu lên trông thấy. Với sức mạnh về mọi mặt của mình, trong đó nổi bật nhất là về kinh tế, Mỹ đã đưa ra Kế hoạch Marshall, vừa để trợ giúp các nước Tây Âu phục hồi kinh tế, vừa để chi phối, kiểm soát các nước này. Với mong muốn kích thích nền kinh tế thế giới đang trong thời kỳ thoái trào và ngăn chặn việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô, nước Mỹ đã rót khoảng 2,5% tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của mình vào công cuộc tái thiết Tây Âu trong thời kỳ từ năm 1947 đến 1951. Được lồng ghép vào Kế hoạch Marshall, viện trợ của Mỹ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình khôi phục Tây Âu từ đống tro tàn đổ nát của Chiến tranh thế giới thứ hai.
Để tiếp nhận viện trợ của Kế hoạch Marshall, các nước Châu Âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh tế và thành lập Tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Âu, về sau trở thành Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development, OECD). Tổ chức này đã có những đóng góp hết sức quan trọng cho việc cung cấp ODA song phương và đa phương.
Được thúc đẩy bởi những tính toán lợi ích về mặt kinh tế và an ninh, cũng như kế hoạch mở rộng ảnh hưởng của nước Mỹ trên phạm vi toàn cầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Mỹ tìm cách nhân rộng thành công này thông qua việc tăng cường viện trợ nước ngoài cho các nước đang phát triển trong thập niên 1950. Chương trình Bốn điểm ra đời năm 1951 nhằm cung cấp viện trợ kỹ thuật được tiếp nối bằng việc thành lập Quỹ Viện trợ phát triển (tiền thân của Cơ quan Phát triển quốc tế ngày nay) nhằm đẩy mạnh tài trợ ưu đãi cho các dự án và chương trình phát triển ở Thế giới thứ ba. Đồng thời, Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD), tiền thân của Ngân hàng Thế giới cũng bắt đầu chuyển trọng tâm từ công cuộc tái thiết Châu Âu sang quá trình phát triển ở Thế giới thứ ba. Cơ quan phát triển quốc tế (IDA), một bộ phận trực thuộc Ngân hàng Thế giới với mục đích cung cấp các khoản cho vay dài hạn không tính lãi suất để hỗ trợ phát triển ở các nước nghèo nhất thế giới được thành lập vào năm 1960. Các tổ chức chuyên biệt của Liên hợp quốc, ví dụ như Tổ chức Lương thực và nông nghiệp, Tổ chức Y tế thế giới cũng lớn mạnh cả về số lượng và quy mô trong các thập niên 1950 và 1960.
Cùng với sự hình thành đông đảo các tổ chức đa phương là sự ra đời của rất nhiều tổ chức viện trợ tại các nước phát triển Tây Âu cũng như ở các nơi khác. Trong vòng 20 năm tiếp theo, chương trình viện trợ song phương từ các nước cung cấp viện trợ khác còn tăng hơn rất nhiều so với của Mỹ. Trong khuôn khổ hợp tác và phát triển, các nước OECD đã lập ra những Uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (Development Assistance Committee, DAC), nhằm giúp các nước đang phát triển đẩy nhanh phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. Thành viên ban đầu của DAC có 18 nước: Ôxtrâylia, Áo, Aixơlen, Bỉ, Canađa, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức, Italia, Nhật, Hà Lan, Niu Dilân, Nauy, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Anh, Mỹ. Hiện nay, DAC có thêm Bồ Đào Nha, Lucxămbua và Tây Ban Nha. Các nước thành viên DAC có trách nhiệm thường xuyên thông báo cho Uỷ ban các khoản đóng góp của họ cho các chương trình viện trợ và phát triển, đồng thời trao đổi với nhau các vấn đề liên quan đến chính sách viện trợ và phát triển.
2. Khái niệm vốn ODA
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia) cung cấp cho các nước chậm và đang phát triển, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi ở các nước này. ODA thường được đàm phán, ký kết và tài trợ thông qua các nghị định thư tài trợ và các thủ tục điều kiện kèm theo, phức tạp hơn nhiều so với các kênh di chuyển vốn khác.
Ở Việt Nam, Điều 1 của Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức được ban hành theo Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001 của Chính phủ Việt Nam quy định ODA là hoạt động hợp tác phát triển giữa nhà nước hoặc chính phủ của một quốc gia với nhà tài trợ bao gồm chính phủ nước ngoài và các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia dưới hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc vốn vay ưu đãi có yếu tố cho không đạt ít nhất 25%.
Lúc đầu, ODA được xem là sự trợ giúp vốn dưới dạng viện trợ không hoàn lại (chỉ chiếm khoảng 25% số vốn cung cấp) hoặc cho vay với các điều kiện ưu đãi của các nước phát triển cho các nước đang phát triển. Nhưng gần đây, Uỷ ban viện trợ phát triển đã nói tới vai trò khác của viện trợ, ngoài việc cung cấp vốn, viện trợ phải chú trọng vào việc hỗ trợ các nước tiếp nhận vốn để có được thể chế và những chính sách phù hợp, chứ không đơn thuần chỉ là cấp vốn. Có như vậy thì hiệu quả sử dụng vốn cũng như tác dụng của ODA mới được mở rộng và lâu dài.
Theo Ngân hàng Thế giới, viện trợ phát triển chính thức cung cấp nguồn vốn cho một số dự án hứa hẹn mang lại những lợi ích kinh tế – xã hội to lớn, nhưng không thu hút được sự quan tâm của nguồn vốn tư nhân, bao gồm những dự án đầu tư vào y tế, giáo dục, nghiên cứu nông nghiệp và cơ sở hạ tầng. Nhiều dự án loại này chỉ có thể thu hồi vốn sau 30-40 năm, một khoảng thời gian quá dài khiến các nhà đầu tư tư nhân không muốn tham gia. Vai trò chủ yếu của viện trợ trong phát triển là bổ sung chứ không phải thay thế cho khu vực tư nhân. Kết quả mong đợi là một mô hình tăng trưởng kinh tế hoàn chỉnh và hiệu quả hơn. Viện trợ còn được biện minh vì lý do bình đẳng. Bởi vì phần lớn viện trợ được cung cấp theo những điều khoản ưu đãi, nên các nước nghèo có thể tiếp cận những nguồn vốn mà họ không thể tìm kiếm được theo cách khác. Tương tự như vậy, nếu không có viện trợ ưu đãi thì những nước nghèo không thể chi trả cho các dịch vụ họ nhận được, khó có thể hiện đại hoá cơ sở hạ tầng cả về kinh tế và xã hội, do vậy khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng cường xuất khẩu sẽ bị hạn chế.
3. Đặc điểm của ODA
Thứ nhất, vốn ODA mang tính ưu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại (cho không), đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là:
Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn.
Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA.
Thứ hai, vốn ODA mang tính ràng buộc
ODA có thể ràng buộc (hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thể hiện bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá viện trợ của nước mình, Canada yêu cầu tới 65%. Nhìn chung 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này ? Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo… đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế không phân biệt nước giàu, nước nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị: xác định vị thế và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Ví dụ, Nhật Bản là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ sử dụng ODA như một công cụ đa năng về chính trị và kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài chính rất lớn cho các nước Đông Nam Á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu cầu vốn ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay tính bằng đồng Yên và gắn với những dự án có các công ty Nhật tham gia.
Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
4. Nội dung viện trợ ODA:
4.1. Viện trợ không hoàn lại
Là dạng viện trợ mà bên nhận không phải hoàn trả dưới bất kỳ hình thức nào cho nhà tài trợ. Viện trợ không hoàn lại thường chiếm 25% trong tổng số vốn ODA trên thế giới. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi nước nhận viện trợ mà tỷ lệ trên cao hay thấp và thường được thực hiện dưới các dạng cơ bản như: hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ nhân đạo …
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện ưu tiên cho các nước đang phát triển, có thu nhập thấp và không ràng buộc điều kiện chính trị một cách lộ liễu.
Hầu hết viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống của Liên hợp quốc đều thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưu tiên cho các nước đang phát triển, có thu nhập thấp và không ràng buộc điều kiện chính trị một cách lộ liễu. Viện trợ không hoàn lại thường tập trung vào sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực sau:
– Xoá đói giảm nghèo, trước hết tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa
– Y tế, dân số và phát triển
– Giáo dục, phát triển nguồn nhân lực
– Các vấn đề xã hội (tạo việc làm, cấp nước sinh hoạt, phòng chống dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội)
– Bảo vệ môi trường, bảo vệ phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nghiên cứu khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai
– Nghiên cứu chuẩn bị các chương trình, dự án phát triển
– Cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, địa phương và phát triển thể chế
– Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
4.2. Viện trợ có hoàn lại (hay là vay ưu đãi)
Viện trợ có hoàn lại là khoản tín dụng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thế giới, là nguồn vốn được ưu đãi với mức lãi suất thấp, thời gian ân hạn và thời hạn trả nợ dài, được bảo đảm sao cho “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) ít nhất đạt 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc. Nhưng nó phải được hoàn trả lãi và gốc theo hiệp định được ký kết giữa nước cung cấp viện trợ và nước tiếp nhận viện trợ.
Viện trợ có hoàn lại được sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực sau:
– Xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn
– Giao thông vận tải, thông tin liên lạc
– Năng lượng
– Cơ sở hạ tầng xã hội (các công trình phúc lợi công cộng, y tế, giáo dục và đào tạo, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường)
– Hỗ trợ cán cân thanh toán
– Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
4.3. Viện trợ hỗn hợp
Viện trợ hỗn hợp bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và viện trợ có hoàn lại. Phần cấp không là viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 25% tổng viện trợ, còn lại 75% là phần viện trợ có hoàn lại. Phần viện trợ có hoàn lại này có thể được viện trợ dưới hình thức cho vay ưu đãi hoặc cho vay tín dụng bình thường. Đây là hình thức viện trợ được thực hiện nhiều nhất vì có lợi cho cả nước tiếp nhận viện trợ và nước cung cấp viện trợ.
5. Các hình thức viện trợ ODA
5.1. Hỗ trợ cán cân thanh toán và ngân sách
Gồm các khoản ODA được cung cấp dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hóa để hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc ngân sách của Nhà nước.
Hỗ trợ cán cân thanh toán và ngân sách thường có nghĩa là hình thức hỗ trợ tài chính trực tiếp, nhưng đôi khi lại là hỗ trợ hiện vật hoặc hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá chuyển vào trong nước thông qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán có thể được chuyển thành hỗ trợ ngân sách. Điều này xảy ra khi hàng hoá nhập vào nhờ hình thức này được bán ra trên thị trường trong nước, và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của Chính Phủ.
5.2. Tín dụng thương mại
Hình thức hỗ trợ bằng tín dụng thương mại là hình thức cho vay với các điều khoản mềm như: lãi suất thấp, hạn trả dài…. Trên thực tế hình thức hỗ trợ tín dụng thương mại là một dạng hỗ trợ có ràng buộc.
5.3. Viện trợ chương trình
Viện trợ chương trình là hình thức viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không phải xác định chính xác nó sẽ phải được sử dụng như thế nào.
5.4. Hỗ trợ dự án
Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của viện trợ chính thức. Hỗ trợ dự án thường liên quan đến hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật và trên thực tế thường có cả hai yếu tố này: Hỗ trợ cơ bản thường chủ yếu về xây dựng như: đường sá, cầu cống, trường học, bệnh viện, hệ thống viễn thông …. Thường các dự án này có kèm theo một bộ phận của viện trợ kỹ thuật, dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó, hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho các đối tác tham gia nhận viện trợ ; Hỗ trợ kỹ thuật thường chủ yếu chỉ tập trung vào chuyển giao trí thức hoặc tăng cường lập cơ sở kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu trước khi đầu tư: Quy hoạch, lập các luận chứng kinh tế, kỹ thuật…. Chuyển giao trí thức có thể là chuyển giao công nghệ thông thường , nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội …
6. Nguồn cung cấp ODA
Về cơ bản, trên thế giới có 2 nguồn cung cấp ODA chủ yếu là: các nhà tài trợ song phương và các tổ chức tài trợ đa phương.
ODA song phương tập trung chủ yếu vào một số đối tác sau: các nước thành viên của Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC), các nước thành viên của tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Liên Xô cũ và Đông Âu.
Các tổ chức tài trợ đa phương bao gồm: các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc như: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Chương trình Lương thực thế giới (WFP), Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức nông nghiệp và lương thực (FAO); Liên minh Châu Âu (EU); Các tổ chức phi chính phủ (NGOs); Các tổ chức tài chính quốc tế, gồm: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng phát triển Châu Phi (AfDB), Quỹ viện trợ của OPEC; Quỹ Côoét, …
Trong số các nguồn này thì ODA từ các nước thành viên của Uỷ ban viện trợ phát triển ( DAC) là lớn nhất.
Tôi là Nguyễn Đình Long, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 3C– Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Website: https://luanvan3c.com/ – Hotline: 0966.736.325.
GẶP TƯ VẤN VIÊN
Bình chọn Một bài tiểu luận thành công thường sở hữu cấu trúc rõ ràng và hợp lý. Nếu bạn đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm điểm khởi đầu, hãy yên tâm, vì trong bài viết này, Luận văn 3C sẽ trình bày cho bạn về cấu trúc bài tiểu luận hoàn chỉnh […]
Bình chọn Ngành Trung Quốc học đang trở thành một lựa chọn hấp dẫn cho nhiều bạn trẻ Việt Nam khởi nghiệp và nghiên cứu. Điều này có lý do rõ ràng, khi mà văn hóa Trung Quốc ngày càng thấm nhuần vào đời sống Việt Nam qua nhiều hình thức phong phú. Thêm vào […]
Bình chọn Việc nghiên cứu và viết luận văn về Lý Luận Và Lịch Sử Nhà Nước Và Pháp Luật yêu cầu người thực hiện phải có nền tảng kiến thức vững chắc và khả năng phân tích sâu sắc. Nếu bạn đang gặp khó khăn trong quá trình viết bài luận của mình, hãy […]
Bình chọn Để hỗ trợ các bạn học viên tìm kiếm những đề tài mới mẻ và thú vị, Luận văn 3C đã biên soạn một danh sách các 100 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý văn hóa, Những đề tài trong danh sách này được tổng hợp từ các trường đại học trên […]
Bình chọn Với 100 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục, bạn sẽ tiết kiệm được khá nhiều thời gian khi tìm kiếm chủ đề cho luận văn của mình. Chỉ cần chọn một đề tài phù hợp với sở thích, bạn đã có thể bắt tay ngay vào việc triển khai […]
Bình chọn Luận văn thạc sĩ Triết học là một tác phẩm yêu cầu người viết đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để thực hiện nghiên cứu. Việc lựa chọn đề tài phù hợp là rất quan trọng, cần thiết và nên được ưu tiên thực hiện ngay từ đầu. Luận văn […]
Bình chọn Chúng tôi hiểu rằng việc tìm kiếm một đề tài phù hợp cho bài luận văn thạc sĩ về Chủ nghĩa Xã hội Khoa học có thể là một thử thách lớn đối với các bạn học viên. Để giúp các bạn khởi động và hoàn thành công việc này, hôm nay, chúng […]
Bình chọn Các nghiên cứu thạc sĩ về Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước đang được các học viên rất quan tâm và có vai trò vô cùng quan trọng. Vậy việc triển khai sẽ diễn ra như thế nào, và cần bao gồm những nội dung cũng như chủ đề gì? Nếu […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế quốc tế Một số giải pháp nhằm đáp ứng rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) tại thị trường EU của ngành da giầy Việt Nam cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế quốc tế Di chuyển lao động trong AEC và cơ hội, thách thức cho Việt Nam cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận văn thạc sĩ với sự […]
Bình chọn Các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn ODA giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành tài chính kinh tế quốc tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Các nhân tố […]
Bình chọn Hiệu quả sử dụng vốn ODA và các tiêu chí đánh giá giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành tài chính kinh tế quốc tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Hiệu quả sử […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế quốc tế Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật Bản tại Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế năm 2008 cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị […]
Bình chọn Vai trò của du lịch quốc tế giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành tài chính kinh tế quốc tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Vai trò của du lịch quốc tế . Nếu […]
Bình chọn Khái niệm và các hình thức về du lịch và du lịch quốc tế giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành tài chính kinh tế quốc tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Khái […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế quốc tế Thực trạng và giải pháp thu hút khách du lịch Nga vào Việt Nam trong bối cảnh mới cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận […]