x
Trang chủ » Cơ sở lý luận về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán

Cơ sở lý luận về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán

Bình chọn

Cơ sở lý luận về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này  cho các bạn cái nhìn tổng quan về Khái niệm chung về công bố thông tin, Yêu cầu về công bố thông tinĐo lường mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp niêm yết. Nếu các bạn cần thêm bài mẫu khóa luận, luận văn thạc sĩ hay tài liệu tham khảo thì liên hệ với dịch vụ viết thuê  luận văn thạc sĩ của Trung tâm Luận Văn 3C qua Zalo : 0966.736.325 để được tư vấn chi tiết nhất.

 công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
công bố thông tin trên thị trường chứng khoán

1. Khái niệm chung về công bố thông tin

Một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của TTCK là CBTT. Nguyên tắc công khai thông tin được hiểu là các định chế, tổ chức khi tham gia thị trường phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực, kịp thời những thông tin liên quan đến tình hình hoạt động của mình cho các NĐT biết. Thông thường, CBTT được hiểu là phương thức thực hiện quy trình minh bạch của doanh nghiệp nhằm đảm bảo các cổ đông và công chúng đầu tư có thể tiếp cận thông tin của DNNY một cách công bằng và đồng thời. Trong định nghĩa này, chúng ta có thể hiểu rằng, minh bạch thông tin “là sự công bố thông tin kịp thời và đáng tin cậy, cho phép những người sử dụng thông tin đó có thể đánh giá chính xác về tình hình và hiệu quả của một đơn vị, hoạt động kinh doanh và rủi ro liên quan đến các hoạt động này”. (Theo International Finance Corporation, Public disclosure and transparency, Yerevan, May 2006).

Cụ thể hơn, CBTT kế toán (Accounting Disclosures) là toàn bộ thông tin được cung cấp thông qua hệ thống các BCTC của một công ty trong thời kỳ nhất định (bao gồm cả các báo cáo giữa niên độ và báo cáo thường niên). CBTT bao gồm hai loại là các công bố bắt buộc và các công bố tự nguyện (hay không bắt buộc). Công bố bắt buộc (Madatory disclosure) là những công bố kế toán được yêu cầu bởi luật pháp và những quy định của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ. Những công bố này phải được trình bày theo những quy định của Luật Kinh doanh, Ủy ban chứng khoán, các cơ quan quản lý về kế toán, GAAP (Generally Accepted Accounting Principles) và các chuẩn mực kế toán. Hiện nay, CBTT bắt buộc mặc dù đã được quy định cụ thể trong các văn bản pháp quy tuy nhiên mức độ tuân thủ vẫn khác nhau giữa các doanh nghiệp,

ý thức về CBTT ở các doanh nghiệp vẫn chưa cao. Công bố tự nguyện (voluntary disclosures) là sự lựa chọn của doanh nghiệp, không bắt buộc, có nghĩa là một doanh nghiệp có thể có hoặc không cần phải công bố các thông tin kế toán mà luật pháp không yêu cầu.

Theo xu hướng hiện nay thì các công bố tự nguyện đang thu hút mối quan tâm lớn của người sử dụng thông tin vì tính ảnh hưởng của nó và các công ty cũng ngày càng được khuyến khích là sẽ thu được nhiều lợi ích hơn khi công bố các thông tin dạng này. Nghiên cứu thông tin được công bố trên BCTC chính là nghiên cứu hành vi CBTT bắt buộc. Tuy nhiên, nội dung được quy định trên BCTC vẫn có một số nội dung bị chi phối bởi chuẩn mực kế toán chỉ mang tính hướng dẫn, do đó những thông tin này chỉ mang tính chất đặc điểm của thông tin cống bố tự nguyện. Như vậy trong phạm vi nghiên cứu này, nội dung thông tin BCTC bao gồm thông tin bắt buộc và thông tin tự nguyện.

CBTT là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực của xã hội và làm giảm thiểu sự nhiễu loạn thông tin giữa doanh nghiệp và các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp (Adina, Ion – 2008). Do đó, hành vi CBTT, đặc biệt của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán, có ảnh hưởng khá lớn trong nền kinh tế. Ảnh hưởng này không chỉ giới hạn ở tầm vi mô trong tình hình tài chính của từng doanh nghiệp, từng nhà đầu tư quan tấm đến DNNY đó mà còn lan rộng trong cả nền kinh tế. Điều đó giải thích vì sao các nghiên cứu về mức độ CBTT, tác động và các yếu tố ảnh hưởng của nó không ngừng được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu trên thế giới. Việc nghiên cứu này đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản trị doanh nghiệp.

Có nhiều cách tiếp cận với thông tin được công bố của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, như qua website của các doanh nghiệp, báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng… Nguồn thông tin mà các nhà đầu tư, các bên thứ ba, các cơ quan quản lý có thể sử dụng bao gồm một hệ thống đa dạng các báo cáo thường niên, báo cáo bán niên, báo cáo bất thường của các doanh nghiệp.

Xem thêm: Khái niệm, chức năng, phân loại và các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

2. Yêu cầu về công bố thông tin

2.1. Yêu cầu công bố thông tin trong chuẩn mực kể toán – kiểm toán

Trong ISAB – khuôn mẫu lý thuyết về kiểm toán, bốn tính chất quan trọng của thông tin kế toán được yêu cầu phải thể hiện là:

Tính có thể hiểu được (Understandability): Kế toán viên, người thực hiện việc lập BCTC được giả định rằng có một kiến thức nhất định về kinh doanh, các hoạt động kinh tế và kế toán. Tuy nhiên không có nghĩa là các thông tin phức tạp với nhu cầu ra quyết định kinh tế của người sử dụng lại có thể không được trình bày trên BCTC với lý do là chúng được cho là quá khó hiểu đối với người sử dụng.

Tính thích hợp (Relevance): thông tin được cho là thích hợp khi nó ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng, giúp họ đánh giá các sự kiện quá khứ, hiện tại và tương lai hay điều chỉnh các đánh giá trong quá khứ của họ. Thông tin thích hợp chịu ảnh hưởng bởi bản chất và tính trọng yếu của nó.

Trong một vài trường hợp, chỉ riêng về tính chất thuần hóa của vấn đề cũng đủ để xác định tính thích hợp của chúng. Ví dụ: Báo cáo của một đơn vị thành viên có thể ảnh hưởng đến việc đánh giá rủi ro và cơ hội mà đơn vị đang đối mặt mà không cần xét đến tính trọng yếu của kết quả đạt được của đơn vị thành viên đó trong kỳ báo cáo. Trong các trường hợp khác, cả bản chất và mức trọng yếu của thông tin đều quan trọng. Ví dụ: giá trị của mỗi loại hàng hoá tồn kho chủ yếu đều quan trọng đối với doanh nghiệp.

Thông tin được xem là trọng yếu nếu thiếu hay sai lệch thông tin có thể ảnh hưởng đến người sử dụng khi họ dựa trên BCTC để ra quyết định. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn của khoản mục hay sai sót được đánh giá trong từng trường hợp cụ thể.

Tính đáng tin cậy (Reliability): thông tin đáng tin cậy là thông tin không chứa đựng các sai sót hay thiên lêch trọng yếu và được trình bày trung thực. Để đạt được điều này, thông tin cần phải được:

+ Trình bày trung thực (Faithful representation): trình bày các sự kiện, nghiệp vụ theo đúng nội dung xảy ra hay dự đoán hợp lý. Phần lớn các thông tin tài chính có thể được trình bày thiếu trung thực không phải vì thiên lệch mà do khó khăn trong việc xác

định nghiệp vụ hay sự kiện cũng như đo lường giá trị của nghiệp vụ. + Tôn trọng nội dung hơn hình thức (Substance over form): các nghiệp vụ hay sự kiện phải được tính toán và trình bày theo nội dung và tính chất kinh tế chứ không phải đơn thuần theo hình thức pháp lý. Nội dung và hình thức pháp lý không phải lúc nào cũng nhất quán.

+ Khách quan (Neutrality): thông tin được trình bày phải khách quan, không bị xuyên tạc, không được trình bày nhằm để đạt được kết quả đã được xác định trước.
+ Thận trọng (Prudence): thận trọng là việc cân nhắc trong điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng không cho phép khai thiếu tài sản và thu nhập hay khai khống chi phí.

+ Đầy đủ (Completeness): thông tin trình bày trên BCTC phải đầy đủ trong giới hạn của tính trọng yếu và chi phí. Việc thiếu thông tin có thể dẫn đến thông tin sai lệch hay chệch hướng và thông tin có thể trở nên không đáng tin cậy hay không thích hợp.

Tính có thể so sánh được (Comparability): thông tin phải trình bày để người sử dụng có thể so sánh các BCTC của đơn vị trong một khoảng thời gian nhằm xác định xu hướng về tình hình tài chính và kết quả hoạt động của các đơn vị khác nhau với nhau nhằm so sánh đánh giá tình hình tài chính, kết quả hoạt động và sự thay đổi tình hình tài chính của các bên.

Theo chuẩn mực kế toán VAS 01: Chuẩn mực chung, quy định rõ các yêu cầu cơ bản đối với kế toán: trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu, có thể so sánh được.

+ Trung thực: các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

+ Khách quan: các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo.

+ Đầy đủ: mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế toán phải

được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót.

+ Kịp thời: các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.

+ Dễ hiểu: các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong BCTC phải rõ ràng, dễ

hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về kinh doanh, về kinh tế tài chính, kế toán ở mức trung bình. Thông tin về những vấn đề phức tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.

+ Có thể so sánh: các thông tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp chỉ có thể so sánh được khi chúng được tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải giải trình trong phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh thông tin giữa các kỳ kế toán, giữa các doanh nghiệp hoặc giữa thông tin thực hiện với thông tin kế hoạch, dự toán.

2.2. Yêu cầu công bố thông tin đối với công ty niêm yết

Đối với công ty niêm yết, áp lực CBTT tăng lên nhiều lần khi mà đối tượng chủ sở hữu được mở rộng, khoảng cách giữa chủ sở hữu và quản lý trở nên lớn hơn. Nhu cầu tìm hiểu thông tin không chỉ riêng chủ sở hữu mà còn là các nhà đầu tư. Chính vì vậy, yêu cầu CBTT đặt ra cho các công ty niêm yết luôn chặt chẽ và đầy đủ hơn so với các công ty khác. Các quy định này nhằm ngăn chặn việc che giấu thông tin hay CBTT thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng thông tin và cũng để duy trì một cơ chế giám sát có hiệu quả từ các bên có liên quan và công chúng đầu tư đối với hoạt động của các công ty niêm yết. Việc CBTT chính xác có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng đầu tư đối với các doanh nghiệp niêm yết.

Để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư cũng như sự phát triển bền vững của thị trường và đáp ứng nhu cầu quản lý của Nhà nước, Luật chứng khoán yêu cầu một sự CBTT cao hơn. Cụ thể thông tư mới nhất hiện nay số 52/2012/TT-BTC yêu cầu việc CBTT của các công ty niêm yết phải đảm bảo tính “đầy đủ, chính xác và kịp thời” theo quy định của pháp luật. Hoạt động CBTT phải do Giám Đốc hoặc người được uỷ quyền thực hiện và phải chịu trách nhiệm về nội dung được công bố.

Tính đầy đủ thể hiện ở các quy định cụ thể về thể loại, nội dung và hình thức công bố, cả thông tin công bố thường niên và bất thường có khả năng ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng.

Tính chính xác là các thông tin được công bố phải là các thông tin trung thực, khách quan và đáng tin cậy. Việc CBTT phải do người đại diện theo pháp luật hoặc người được uỷ quyền công bố thực hiện.

Yêu cầu về tính kịp thời của các thông tin không chỉ mang tính tự nguyện mà còn là mang tính bắt buộc vì trong thị trường chứng khoán, mọi sự chậm trễ có thể làm thông tin mất đi hoặc giảm phần lớn tác dụng. Việc quy định chặt chẽ thời gian tối đa để CBTT trong từng trường hợp, chẳng hạn như trong CBTT định kỳ, các công ty niêm yết phải cung cấp BCTC năm đã được kiểm toán chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày tổ chức kiểm toán ký báo cáo kiểm toán, điều này thể hiện yêu cầu về tính kịp thời cao.

3. Đo lường mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp niêm yết

Trong các nghiên cứu về CBTT, một trong những hạn chế thường hay bị bắt gặp là sự đo lường quy mô của việc công bố (Healy và Palepu, 2001). Các lý thuyết hiện có chấp nhận một sự đa dạng các cách tiếp cận về đo lường CBTT. Một số nghiên cứu chấp nhận một bức tranh định tính về các phân tích tài liệu và phân tích thuộc về ngôn ngữ, việc sử dụng các chỉ số công bố đã được khái quát hoá trong nghiên cứu. Theo Beattie, McInnes và Fearnley (2004), để đo lường việc công bố có thể kể đến hai cách tiếp cận khác nhau đó là loại chủ quan và nửa khách quan.

Loại chủ quan hướng về những phân tích xếp loại các công ty theo số lượng thông tin được công bố. Các loại thang đo dùng cho loại chủ quan được đưa ra bởi AIMR (Hiệp hội Nghiên cứu và Đầu tư) hay bởi Standard & Poor’s. Các nghiên cứu nửa khách quan bao gồm việc sử dụng các công cụ như phân tích nội dung chuyên sâu, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu ngôn ngữ và các chỉ số công bố.

Tuy nhiên tính chủ quan của các nhà nghiên cứu có thể ảnh hưởng đến giá trị của nghiên cứu. Do đó các phương pháp khách quan hơn dần dần phát triển để vượt qua những hạn chế của loại chủ quan. Để đo lường CBTT, các nhà nghiên cứu đã dùng một cách mới là liệt kê tất cả các mục, các nhóm dữ liệu được công bố như một số các từ hay câu bao gồm trong báo cáo thường niên (Marston và Shrives, 1991). Việc dùng các câu như là một đơn vị để phân tích đã trở nên phổ biến (Entwistle, 1999). Mặc định rằng một mức độ cao hơn về chất lượng thông tin tốt hơn hoặc minh bạch hơn được đưa đến bởi số câu chứa thông tin hiện hành được công bố nhiều hơn.

Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong BCTC. Tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp niêm yết ở các nước đang phát triển. Hầu hết các chỉ số được sử dụng trong các lý thuyết công bố thực nghiệm cân nhắc đến phạm vi (hay độ bao phủ) như một sự đại diện cho chất lượng thông tin. Các mục thông tin được đo lường trong các biến giả, nếu được công bố thì nhận giá trị 1 hay ngược lại thì nhận giá trị 0. Tuy nhiên cũng có khi các mục dữ liệu được định giá trị theo bản chất của thông tin, thông tin nào định lượng được thì có giá trị cao hơn thông tin không định lượng được trong nghiên cứu. Chúng được cân đo trong sự phù hợp với các thông tin quan trọng có liên quan khác, mặc dù không có sự thống nhất về lợi ích của việc đo lường này.

Đo lường mức độ CBTT đóng vai trò quan trọng trong các nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn. CBTT là khái niệm trừu tượng do không có một đặc trưng nổi bật để có thể sử dụng cho việc đo lường chất lượng hay mức độ CBTT. Để phục vụ cho việc đo lường đánh giá về mức độ CBTT và cũng để định hướng cho việc CBTT trong tương lai, cần thiết phải vạch ra một chuẩn mực tin cậy về CBTT. Điều này góp phần làm giảm đi sự thiếu hiệu quả của thị trường vốn, giảm thiểu sự nhiễu loạn thông tin giữa doanh nghiệp và đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp (theo Adina và Ion, 2008).

Để đo lường mức độ CBTT, các nhà nghiên cứu trước đây đã chọn một trong ba cách: cách thứ nhất là thuật toán dựa vào cơ sở dữ liệu điều tra AIMR (Association for Investment Management and Research) hoặc FAF (Financial Analysts Federation); cách thứ hai là dựa vào dự báo của quản trị công ty; cách thứ ba là tự đo lường. Tuy nhiên, mỗi cách đều có một hạn chế nhất định.

Để lượng hoá chính xác mức độ CBTT trong BCTC, các nghiên cứu đã được thực hiện đi qua hai bước cơ bản:

+ Trước tiên các nhà nghiên cứu xây dựng một thang chuẩn đã được thực hiện trong các nghiên cứu đi trước khác nhau phụ thuộc vào yêu cầu công bố của mỗi quốc

gia, trình độ phát triển thị trường vốn và nhận định chủ quan của nhà nghiên cứu.Vấn đề này đã được Yuan Dinh, Linghui Fu, Herve Stolowy và Huiwen Wang, 2004 thống kê trong nghiên cứu: “Disclosure and determinants studies: An extension using the divisive clustering method” Số chỉ mục thông tin được lựa chọn để nghiên cứu không giống nhau mặc dù có thể các nghiên cứu cùng hướng đến một đối tượng như thông tin công bố là tự nguyện hay bắt buộc thì số chỉ mục cũng có sự khác biệt lớn.

+ Tiếp theo, các nhà nghiên cứu dùng thang chuẩn đã xây dựng để mã hoá từng chỉ mục thông tin trong mỗi quan sát. Việc đo lường hay mã hoá theo thang chuẩn

được xây dựng cũng tồn tại những cách tiếp cận khác nhau. Thông thường, có ba phương án được tiếp cận để đo lường: đó là Đo lường không trọng số, Đo lường có trọng số và Đo lường hỗn hợp.

3.1. Đo lường không trọng số

Dựa vào thang chuẩn đã được xây dựng, các mục thông tin nếu được công bố trong BCTC sẽ được gán giá trị 1, nếu thông tin có phát sinh mà không được công bố sẽ được gán giá trị 0, còn nếu thông tin đó không phát sinh thì sẽ không được gán giá trị. Theo đó, các chỉ mục thông tin được theo dõi ở giác độ có công bố hay không và ngầm định mỗi chỉ mục có vai trò ngang nhau trong đánh giá. Các tác giả như Wallace (1987), Cooke (1991, 1992), Ameh và Nicols (1994), Owusu Assh (1998), … đã sử dụng cách tiếp cận này trong các nghiên cứu của họ.

3.2. Đo lường có trọng số

Khác với phương pháp đo lường không trọng số, phương pháp này yêu cầu các mục thông tin được chọn lọc cùng với việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi chỉ mục là thấp hay cao. Từ đó, một hệ thống trọng số phản ánh mức độ quan trọng của từng thông tin được xây dựng song song với hệ thống chỉ mục thông tin được chọn lọc trong thang chuẩn. Việc đo lường được thực hiện như là đo lường không trọng số nhưng sau khi được gán giá trị, chúng lại được nhân với trọng số đã được xây dựng trước đó. Singhvi và Desai (1971), Barret (1977), Marson (1986) đã sử dụng cách tiếp cận này.

3.3. Đo lường hỗn hợp

Là sự kết hợp cả hai phương pháp đo lường có trọng số và không trọng số như trong nghiên cứu của Fracisco, Mria và Marco: “Thiết kế các chỉ số công bố – có hay không sự khác biệt?”. Ở đây, tác giả sử dụng việc đo lường CBTT dựa trên xây dựng ba chỉ số công bố: chỉ số chất lượng, chỉ số phạm vi, chỉ số về số lượng. Mỗi chỉ số xây dựng dựa trên phương pháp trọng số như chỉ số SCI (scope index) sẽ được gán là 0 nếu không được công bố; được gán là 0.5 nếu công bố là định tính, được gán là 1 nếu công bố là định lượng và phương pháp không trọng số như chỉ số COV (coverage dimension), ESM (economic sign and measure index), OLT (outlook profile index), ….

Tuy nhiên, hạn chế lớn khi sử dụng phương pháp đo lường có trọng số và đo lường hỗn hợp là mỗi cá nhân khi nghiên cứu sẽ có những quan điểm khác nhau khi đánh giá trọng số của mỗi khoản mục thông tin làm cho kết quả nghiên cứu mang tính chủ quan cao nên dễ cho ra những kết quả khác biệt. Để hạn chế điều đó, nghiên cứu này tập trung vào đánh giá mức độ CBTT trong BCTC với những thông tin được quy định rõ ràng từ các văn bản pháp luật liên quan bằng phương pháp đo lường không trọng số.

 

 

GẶP TƯ VẤN VIÊN

Chúng tôi chuyên nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn sẽ giúp bạn hoàn thành đề tài của mình.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Bài viết mới
Tiểu luận Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học duy vật và triết học duy tâm ở Hy Lạp thời cổ đại

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học duy vật và triết học duy tâm ở Hy Lạp thời cổ đại đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các […]

Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất

Bình chọn Bài viết chia sẻ tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, […]

Tiểu luận Quy luật mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quy luật mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như […]

Tiểu luận Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh […]

Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập […]

Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới ở Việt Nam

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C […]

Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như các bạn muốn […]

Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế

Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu […]

Bài viết liên quan
100 đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế phát triển hay nhất

Bình chọn Luận văn thạc sĩ về kinh tế phát triển là một sản phẩm nghiên cứu của những sinh viên theo học chương trình này, nhằm hoàn thành yêu cầu học tập cấp bậc thạc sĩ. Do đó, luận văn có những tiêu chí riêng biệt cần tuân thủ. Hãy tham khảo ngay 100 […]

100 đề tài luận văn thạc sĩ ngành lưu trữ học hay nhất

Bình chọn Những mẫu luận văn thạc sĩ trong lĩnh vực Lưu trữ học luôn nhận được sự quan tâm lớn. Điều này xuất phát từ việc nhu cầu theo đuổi chương trình thạc sĩ ngành này ngày càng gia tăng. Trong quá trình thực hiện luận văn, việc chọn lựa đề tài và phương […]

100 đề tài luận văn thạc sĩ ngành quản lý chất lượng điểm cao

Bình chọn Nếu bạn đang gặp khó khăn trong việc nghiên cứu và viết luận văn trong lĩnh vực quản lý, đặc biệt là về quản lý chất lượng, hãy tham khảo danh sách 100 đề tài luận văn thạc sĩ ngành quản lý chất lượng nổi bật nhất. Luận Văn 3C đã tổng hợp […]

100 đề tài luận văn thạc sĩ ngành thống kê kinh tế chọn lọc

Bình chọn Trong bối cảnh kinh tế phát triển mạnh mẽ và tình hình toàn cầu ngày càng phức tạp, việc hiểu và ứng dụng các phương pháp thống kê một cách chính xác trở nên vô cùng cần thiết. Dành cho những ai đang quan tâm đến lĩnh vực thống kê kinh tế, Luận […]

100 đề tài luận văn thạc sĩ ngành kinh tế đầu tư điểm cao

Bình chọn Chủ đề kinh tế đầu tư thực sự hứa hẹn và thú vị cho việc nghiên cứu luận văn thạc sĩ. Do đó, Luận Văn 3C đã cung cấp cho bạn các thông tin chi tiết về luận văn thạc sĩ trong lĩnh vực này, bao gồm hơn 100 đề tài luận văn […]

100 đề tài luận văn thạc sĩ ngành kinh tế chính trị chọn lọc nhất

Bình chọn Trong lĩnh vực Luận văn thạc sĩ Ngành Kinh Tế Chính Trị, có rất nhiều đề tài thú vị và độc đáo. Tuy nhiên, khi học viên chọn những đề tài này để làm bài, họ sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn. Đầu tiên, việc thiếu tài liệu tham khảo […]

100 đề tài luận văn thạc sĩ ngành kinh doanh quốc tế chọn lọc nhất

Bình chọn Trong những năm gần đây, xu hướng toàn cầu hóa và phát triển kinh tế quốc tế đã trở thành một vấn đề được chính phủ, doanh nghiệp và mọi cá nhân quan tâm đẩy mạnh. Đây là một thị trường tiềm năng, mang lại sản lượng và lợi nhuận cao. Điều này […]

Cơ sở lý luận về sự hài lòng của nhân viên

Bình chọn Cơ sở lý luận về sự hài lòng của nhân viên giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này  cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Cơ sở lý luận về sự […]

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
DMCA.com Protection Status