Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thực phẩm tươi sống
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thực phẩm tươi sống giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản lý kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thực phẩm tươi sống. Nếu các bạn cần thêm bài mẫu khóa luận, luận văn thạc sĩ hay tài liệu tham khảo thì liên hệ với dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ luật kinh tế của Trung tâm Luận Văn 3C qua Zalo : 0966.736.325 để được tư vấn chi tiết nhất.
Nội dung chính
1. Khái quát về an toàn thực phẩm tươi sống
1.1. Quan niệm về thực phẩm tươi sống
Từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên trái đất đã cần đến thực phẩm để duy trì sự sống. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ khác nhau lại có những loại thực phẩm đặc trưng của mình. Tuy nhiên, thực phẩm hay còn gọi theo cách thông thường là thức ăn là bất kỳ thứ gì mà con người có thể ăn uống được. Thực phẩm bao gồm 3 nhóm chính là chất đạm, chất béo, và tinh bột. Trước đây, nguồn thực phẩm chủ yếu là do con người săn bắt, hái lượm được. Khi con người biết trồng trọt, chăn nuôi thì nhiều loại thực phẩm khác nhau đã ra đời để thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ thực phẩm ngày càng lớn4. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì những thực phẩm tiện lợi hơn như: thực phẩm ăn liền, thực phẩm đóng hộp, thực phẩm chức năng được sử dụng rộng rãi bởi chúng rất tiện ích, nhanh gọn và dễ sử dụng. Trong khoa học hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về “định nghĩa thực phẩm”. Tác giả Trần Quốc Khánh cho rằng: “Thực phẩm là một loại sản phẩm phổ biến nhất liên quan đến hoạt động sống của con người, hầu hết các loại sản phẩm mà con người có thể ăn hoặc uống được đều có thể gọi là thực phẩm, trừ các loại dùng để chữa bệnh”5. Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Nữ Linh Tâm lại nhìn nhận:“Thực phẩm không chỉ là nguồn cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng cho con người, phát triển duy trì sự sống và lao động, thực phẩm cũng chính là
nguồn gây ngộ độc cho con người nếu như chúng ta không tuân thủ những biện pháp vệ sinh thực phẩm hữu hiệu”6.
Dưới góc độ pháp lý, thì khoản 20, Điều 2, Luật ATTP năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) định nghĩa: “Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm”. Như vậy, Luật ATTP xác định phạm vi thực phẩm tương đối rộng theo nghĩa là: “sản phẩm mà con người ăn, uống”. Tuy nhiên, sản phẩm sẽ chỉ được coi là thực phẩm khi đáp ứng được các điều kiện an toàn cho con người và phù hợp với văn hóa của cộng đồng. Đồng thời, định nghĩa trên cũng loại trừ mỹ phẩm, thuốc lá và dược phẩm. Thực phẩm có thể được nhận dạng qua nhiều dạng như: thực phẩm đã qua chế biến (thực phẩm ăn liền, thực phẩm đóng hộp, thực phẩm sơ chế) hoặc còn tươi sống; có thể là nước uống, sữa, rượu, bia; cũng có thể là dược phẩm (thực phẩm chức năng) và thực phẩm có xuất xứ từ động vật hoặc thực vật. Như vậy, thực phẩm không chỉ là nguồn cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng giúp con người phát triển về thể chất và trí tuệ, mà nó còn giúp chúng ta duy trì sự sống và sức lao động. Ngoài ra, thực phẩm còn có thể gây ra ngộ độc cho con người nếu như thực phẩm không được bảo đảm an toàn hoặc chế biến đúng cách.
Trên cơ sở khái niệm về thực phẩm tại Khoản 20 thì nhà làm luật tiếp tục đưa ra định nghĩa về “Thực phẩm tươi sống” tại khoản 21, Điều 2, Luật ATTP năm 2010 sửa đổi, bổ sung 2018 như sau: “Thực phẩm tươi sống là thực phẩm chưa qua chế biến bao gồm thịt, trứng, cá, thuỷ hải sản, rau, củ, quả tươi và các thực phẩm khác chưa qua chế biến”.
Xem thêm: luận văn thạc sĩ luật kinh tế Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo đảm an toàn thực phẩm tươi sống theo pháp luật Việt Nam
1.2. Khái niệm về an toàn thực phẩm tươi sống
“ATTP” là một khái niệm khoa học có nội dung rộng hơn khái niệm vệ sinh thực phẩm hay chất lượng thực phẩm. Bởi , để biết thực phẩm có an toàn hay không, cần dựa vào một CS hiểu biết có tính khoa học, cho phép trả lời đâu là an toàn, đâu là nguy hại, bởi vì các chất độc có thể tích tụ trong cơ thể thời gian dài, ảnh hưởng đến sức khỏe một cách thầm lặng trước khi phát bệnh. Do đó, có ý kiến cho đã nhận định: ATTP với ý
nghĩa là những hành động của con người nhằm ngăn chặn các mối nguy, hạn chế và xử lý hậu quả do thực phẩm không an toàn gây ra đối với con người, động thực vật7. Trên thế giới, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về “ATTP”. Cụ thể như sau:
* Theo định nghĩa của Tổ chức Lương thực – Nông nghiệp thế giới (FAO), ATTP được định nghĩa “ATTP là việc bảo đảm thực phẩm không gây hại cho NTD khi nó được chế biến hoặc/và dùng theo mục đích sử dụng của nó8”. Theo định nghĩa này, ATTP là hoạt động bảo đảm cho thực phẩm không tác động xấu đến sức khỏe của NTD cả khi chế biến và sử dụng. Định nghĩa tuy đã thể hiện tính khái quát hóa nhưng chưa chỉ rõ được tác động của thực phẩm không an toàn đối với NTD, đó là gây hại gì cho NTD : sức khỏe, hay tính mạng, tinh thần,…?
*Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì “ATTP là việc bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức khỏe, tính mạng người sử dụng, bảo đảm thực phẩm không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép, không phải là sản phẩm của động vật, thực vật bị bệnh có thể gây hại cho sức khỏe người sử dụng”9 .Đây là khái niệm khá đầy đủ, tuy nhiên tính khái quát hóa chưa cao.
* Theo trang Từ điển bách khoa toàn thực mở vi.wikipedia.org, khái niệm ATTP được đồng nhất với khái niệm ATTP. Theo đó “ATTP là một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra…. 10”. Theo cách hiểu này, ATTP
được xem như là một môn khoa học để giải quyết những vấn đề liên quan đến thực phẩm nhằm bảo đảm thực phẩm không gây ảnh hưởng xấu đến NTD.
Dưới góc độ pháp lý, tại Khoản 1, Điều 2, Luật ATTP năm 2010 thì nhà làm luật đã đưa ra định nghĩa về “ATTP” như sau: “ATTP là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người11”. Đây là khái niệm khá khái quát khi nó chứa đựng đầy đủ những nội dung cốt lõi của vấn đề về ATTP. Theo khái niệm này,
ATTP được hiểu là việc thực hiện những cách thức, biện pháp để bảo đảm thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng của con người.
Dưới góc nhìn so sánh thì cách giải thích của Luật ATTP năm 2010 có nét khá tương đồng với pháp luật một số quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn theo pháp luật của Nhật Bản, khái niệm ATTP được hiểu là vệ sinh thực phẩm và đươc giải thích như sau: “ATTP được hiểu là điều kiện vệ sinh liên quan đến việc tiêu dùng thực phẩm của con người bao gồm thực phẩm, phụ gia thực phẩm, dụng cụ chế biến và bao bì”. Định nghĩa này có nhắc tới việc tiêu dùng thực phẩm của con người nhưng vẫn chưa nêu rõ việc bảo đảm an toàn sức khỏe cho con người khi tiêu dùng thực phẩm12.
Từ các phân tích trên, với cách tiếp cận dựa trên khái niệm về “ATTP” theo tác giả có thể hiểu: “ATTP tươi sống được hiểu là việc thực hiện những cách thức, biện pháp để bảo đảm thực phẩm chưa qua chế biến (thịt, trứng, cá, thuỷ hải sản, rau, củ, quả tươi..vvv) không gây hại đến sức khỏe, tính mạng của con người
2. Khái niệm về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thực phẩm tươi sống
NTD (consumer) là khái niệm khá rộng và được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau và không đồng nhất.
* Dưới góc độ kinh tế: NTD là phạm trù chỉ những chủ thể tiêu thụ của cải, vật chất
được tạo ra bởi nền kinh tế. Như vậy, NTD là người mua, sử dụng HH&DV cuối cùng và làm chúng tiêu hao hoặc biến mất qua quá trình sử dụng chúng13. Có thể nói, trong mọi nền sản xuất của tất cả các quốc gia, NTD là đối tượng được hướng tới của mọi doanh nghiệp. NTD quyết định nhóm ngành, hàng được sản xuất, định hướng đầu tư và phát triển cho các doanh nghiệp trong thị trường.
* Dưới góc độ pháp lý: Thuật ngữ NTD chỉ xuất hiện với tư cách là chủ thể pháp luật
khi lĩnh vực pháp luật về BVQLNTD ra đời. Vì vậy, dưới góc độ pháp lý, NTD là đối tượng được bảo vệ theo luật bảo vệ NTD.
NTD là các khái niệm cơ bản và rất quan trọng. Là chủ thể của quan hệ pháp luật BVQLNTD. Là đối tượng trọng tâm được bảo vệ của pháp luật BVQLNTD. Thế nên,
nội hàm của khái niệm này cần được xác định một cách rõ ràng, chính xác làm cơ sở cho việc quy định các nội dung liên quan khác trong pháp luật BVQLNTD.Dưới góc độ pháp lý, khái niệm NTD được ghi nhận tại Khoản 1, Điều 3, Luật BVQLNTD năm 2010. Theo đó, “NTD là người mua, sử dụng HH&DV cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Như vậy, theo quy định tại Luật BVQLNTD năm 2010 thì cơ sở để xác lập tư cách NTD theo pháp luật VN bao gồm 03 điều kiện cơ bản :
(i) Chủ thể, có thể là cá nhân, gia đình hoặc tổ chức;
(ii) Sử dụng HH&DV cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức;
(iii) Quan hệ tiêu dùng được xác lập thông qua hợp đồng mua bán, cung ứng dịch vụ
hoặc phát sinh trên cơ sở sử dụng HH&DV.
Dưới góc nhìn so sánh, với việc quy định NTD VN bao gồm cá nhân hoặc tổ chức, có quan hệ hợp đồng hoặc không có quan hệ hợp đồng với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh; sử dụng HH&DV vào mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân mà không sử dụng vào mục đích tiêu dùng cho sản xuất hoặc kinh doanh; thì có thể thấy, quan niệm NTD theo pháp luật VN cũng khá tương đồng so với thông lệ quốc tế ngoại trừ chủ thể có thể trở thành NTD bao gồm cả tổ chức
Với tư cách là một “NTD” thì NTD TPTS trước hết sẽ có đầy đủ các đặc điểm vốn có. Tuy nhiên với đặc thù riêng biệt là những cá nhân cụ thể trực tiếp tiêu dùng sản phẩm là TPTS thông qua việc: chế biến, ăn, uống (qua hệ tiêu hóa) thì NTD TPTS tươi sống có những đặc điểm “đặc thù” sau đây:
Thứ nhất, là các cá nhân tiêu dùng TPTS một cách trực tiếp bằng việc chế biến, ăn, uống. Việc xác định NTD TPTS là cá nhân sẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với thực tiễn. Trong một số trường hợp, NTD có thể không cần phải là một bên xác lập quan hệ tiêu dùng trực tiếp với thương nhân mà có thể do một quan hệ phái sinh từ việc tặng, cho… Bởi lẽ, cho dù tổ chức là chủ thể mua TPTS, thì các cá nhân của tổ chức mới là người sử dụng thực phẩm đó, họ là người thực sự bị tổn hại sức khỏe, tính mạng. Do đó, họ mới là đối tượng cần được bảo vệ.
Thứ hai, TPTS là đối tượng của quan hệ tiêu dùng phải là loại hàng hóa được phép giao dịch. Nghĩa là, hàng hóa phải thỏa mãn tiêu chuẩn của TPTS an toàn, không thuộc danh mục hàng hóa bị cấm lưu thông, hoặc chưa được phép lưu thông (do chưa đủ các điều kiện pháp luật quy định).
Thứ ba, mục đích tham gia giao dịch phải nhằm phục vụ nhu cầu ăn, uống của cá nhân. Điều này, phân biệt với trường hợp mua TPTS để bán lại hoặc phục vụ cho hoạt động của quá trình SX&KD nhằm mục đích sinh lời kể cả trong trường hợp cá nhân được cho, tặng. Khi đó, người sử dụng TPTS cuối cùng (end consumer) sẽ được coi là NTD và được pháp luật bảo vệ.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu NTD TPTS là cá nhân sử dụng hàng hóa thực phẩm với mục đích ăn, uống. Mặc dù, vị trí, vai trò của NTD là không thể phủ nhận, song xuất phát từ đặc điểm quan hệ tiêu dùng mà NTD vẫn luôn có vị thế yếu hơn, bất cân xứng về thông tin, kinh tế, khả năng khởi kiện. Đặc biệt, trong quan hệ tiêu dùng TPTS thì những nguy cơ hiện hữu đang đe dọa đến sức khỏe của NTD; khả năng và cơ hội được lựa chọn sản phẩm chính là những yếu tố khiến cho nguyên tắc tự do hợp đồng và trung thực, tận tâm trong thực hiện thỏa thuận hợp đồng sẽ không còn giá trị. Quan điểm này cũng được thể hiện tại Tờ trình số 45/TTr-CP ngày 4 tháng 5 năm 2010 về dự án Luật BVQLNTD như sau: “Bảo vệ NTD là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Không chỉ tại VN, hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi trọng công tác này, bởi lẽ bảo vệ NTD chính là bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội. Do đó, nhiều quốc gia đã sớm ban hành các đạo luật với mục đích bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NTD15”. Đặc biệt trong lĩnh vực ATTP, tại Báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng, vệ sinh ATTP của Đoàn Giám sát, UBTVQH cũng đã chỉ ra: Theo thống kê của Bệnh viện K cho thấy, mỗi năm VN có khoảng 77.457 ca mới mắc bệnh ung thư trong đó 80% là do môi trường sống và chỉ có khoảng 5% là do gen di truyền. Một thống kê khác cũng rất đáng chú ý là, từ năm 2004
đến năm 2008 cả nước có 1.634 vụ NĐTP với 23.894 người bị mắc và 321 người tử vong16 .
Trong khoa học pháp lý thì khái niệm “BVQLNTD” được hiểu là tổng hợp các biện pháp được Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện để bảo đảm quyền lợi của NTD khi sử dụng dịch vụ hàng hoá; ngăn chặn những nhà sản xuất có hành vi gian lận, lừa dối để thu lợi bất chính, bao gồm các biện pháp pháp luật, kinh tế, văn hoá, xã hội17. Nói cách khác, bảo vệ NTD là ghi nhận và làm cho các lợi ích chính đáng của NTD được thực hiện trên thực tế.
Từ các phân tích trên có thể hiểu: “BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống tổng hợp các biện pháp được Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện để bảo đảm quyền lợi của NTD khi sử dụng TPTS nhằm ngăn chặn những nhà sản xuất có hành vi gian lận, lừa dối để thu lợi bất chính”
3. Ý nghĩa của bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thực phẩm tươi sống
Thứ nhất, BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống nhằm bảo đảm quyền an toàn tính mạng, sức khỏe của NTD TPTS.
Thực tiễn cho thấy những tác động tiêu cực của TPTS không an toàn tới sức khỏe NTD, đã đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi của NTD trong lĩnh vực này. BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống là việc bảo đảm cho NTD được sử dụng các TPTS được an toàn và nếu quyền họ bị xâm hại thì phải có cơ chế để khôi phục quyền lợi đó một cách tương xứng. BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống có ý nghĩa vô cùng to lớn với sự phát triển của KT&XH và tồn tại của quốc gia.
Thứ hai, BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống sẽ góp phần bảo đảm sự công bằng, bình đẳng trong quan hệ tiêu dùng TPTS
BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống trước hết là xây dựng hành lang pháp lý nhằm buộc các chủ thể phải tuân thủ các quy định pháp luật trong lĩnh vực ATTP và BVQLNTD.
Chính các quy định của pháp luật BVQLNTD, cùng với chế định trách nhiệm sản phẩm đã tác động đến ý thức pháp luật của nhà SX&KD thực phẩm, để các chủ thể tôn trọng quyền của NTD TPTS. Tuy nhiên, trong thực tế việc tuân thủ pháp luật về ATTP của các chủ thể SX&KD thực phẩm chưa cao. NTD TPTS vẫn còn bị xâm hại nghiêm trọng các quyền và lợi ích; thậm chí không có sự lựa chọn cho việc tiêu dùng thực phẩm an toàn18. Xét ở góc độ khác, do thiếu thông tin về sản phẩm, mà NTD không đủ khả năng để xác định TPTS nào là an toàn và cũng không có sự lựa chọn nào khác để sử dụng thực phẩm an toàn. Do đó, NTD TPTS ở vào vị thế yếu, bất cân xứng về thông tin, không có cơ hội lựa chọn thực phẩm an toàn.
Vì vậy BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống nhằm mang lại sự công bằng cho NTD, sự bình đẳng trong quan hệ tiêu dùng.
Thứ ba, BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống sẽ góp phần xây dựng nền KTTT lành mạnh đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Trong nền KTTT, NTD có sức mạnh vô cùng to lớn, họ là trung tâm của các quan hệ kinh tế, quyết định sự tồn tại của các nhà sản xuất. Nền KTTT hiện đại cũng đòi hỏi pháp luật phải kiểm soát được các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, quảng cáo không trung thực, lừa dối khách hàng, chất lượng HH&DV không bảo đảm an toàn cho người sử dụng. Việc hội nhập quốc tế đòi hỏi hàng hóa của VN muốn tiêu thụ ở thị trường nước ngoài thì phải đáp ứng được các tiêu chuẩn điều kiện cả về chất lượng và pháp lý. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần đặt ra các quy định để bảo đảm hàng rào kỹ thuật, pháp lý với sản phẩm nhập khẩu nhằm BVQLNTD và nền sản xuất hàng hóa trong nước. Trong bối cảnh nhiều hiệp định thương mại tự do đã và sẽ được ký kết thì nhất thiết phải chuyển việc quản lý đơn thuần bằng giấy phép, bằng kế hoạch sang quản lý bằng tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình, quy phạm kỹ thuật, chất lượng hàng hóa và bảo vệ môi trường. Có như vậy mới giải quyết được mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa quyền tự do kinh doanh với bảo vệ trật tự xã hội và sức khỏe con người. Với quốc gia nông nghiệp như VN, TPTS là một loại hàng hóa mang tính chiến lược. ATTP góp phần tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Trong thời gian gần đây, NTD có xu hướng quay lưng lại với thực phẩm được bán tại chợ và siêu thị, tìm đến các thực phẩm được nuôi, trồng thủ công với chi phí đắt hơn nhiều lần. Đối với nhà sản xuất, thiệt hại lớn nhất là mất lòng tin của NTD. Khi NTD tẩy chay sản phẩm của nhà sản xuất thì có thể dẫn đến nguy cơ phá sản doanh nghiệp, tác động không tốt tới sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Vì thế, nếu NTD không được bảo vệ tức là quan hệ tiêu dùng không được bảo vệ. Khi đó, chính sự bất công bằng trong quan hệ tiêu dùng sẽ khiến hoạt động mua bán không tồn tại và tất yếu không còn nền sản xuất thị trường. Vì những lý do trên, có thể thấy, BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống là góp phần quyết định, thúc đẩy sự phát triển của nền KTTT ở nước ta; hạn chế những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, ngăn ngừa các hành vi xâm phạm lợi ích chung của xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của NTD và nhà sản xuất chân chính. Từ đó đáp ứng yêu cầu của một nền KTTT hiện đại trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Thứ tư, BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống nhằm giảm thiểu chi phí y tế và sự suy giảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực
NĐTP và các bệnh do thực phẩm gây ra không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ và cuộc sống của mỗi người, mà còn gây thiệt hại lớn về kinh tế, là gánh nặng chi phí cho chăm sóc sức khoẻ. Với số nạn nhân NĐTP tươi sống hàng năm không ít, số người mắc ung thư cao hàng đầu thế giới, VN đang phải đối mặt với chi phí y tế tăng và sự suy giảm về nguồn nhân lực trong tương lai gần. Những thiệt hại khi không bảo đảm ATTP gây nên nhiều hậu quả cho sức khỏe và tình mạng của NTD. Thiệt hại do các bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, phục hồi sức khỏe, chi phí do phải chăm sóc người bệnh, sự mất thu nhập do phải nghỉ làm… Do đó, BVQLNTD trong lĩnh vực đảm bảo ATTP tươi sống nhằm giảm thiểu chi phí y tế và sự suy giảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Tôi là Nguyễn Đình Long, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 3C– Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Website: https://luanvan3c.com/ – Hotline: 0966.736.325.
GẶP TƯ VẤN VIÊN
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý đánh giá giáo viên các trường tiểu học huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre theo chuẩn nghề nghiệp cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Phát triển đội ngũ hiệu trưởng các trường tiểu học huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông theo tiếp cận quản lý nguồn nhân lực cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Thực trạng quản lý đổi mới hoạt động giảng dạy Tiếng Anh ở các trường Trung học phổ thông tại Bình Dương cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh Trường Tiểu học An Tường, thành phố Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục quản lý hoạt động dạy học theo quan điểm quản lý sự thay đổi ở trường trung học phổ thông tân trào – tỉnh tuyên quang cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý hoạt động dạy học theo chuyên đề cấp THPT ở Trung tâm GDNN – GDTX huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Nam Định đáp ứng yêu cầu năng lực ngoại ngữ cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Quản lý hoạt động dạy học của các trường Tiểu học tại huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. […]
Bình chọn Các loại thuế cơ bản đối với hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Các loại thuế cơ bản đối với hộ […]
Bình chọn Phân loại hộ kinh doanh theo quy định pháp luật thuế giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Phân loại hộ kinh doanh theo quy […]
Bình chọn Cơ sở lý luận về pháp luật thuế đối với hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Cơ sở lý luận về […]
Bình chọn Khái quát chung về hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Khái quát chung về hộ kinh doanh Nếu các bạn cần thêm […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ luật kinh tế Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch mua bán hàng hóa trên sàn Thương mại điện tử cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên […]
Bình chọn Trình tự thủ tục chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Trình tự thủ tục chào bán trái […]
Bình chọn Phương thức tiến hành hoạt động chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Phương thức tiến hành hoạt […]
Bình chọn Điều kiện và nguyên tắc tiến hành hoạt động chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Điều kiện […]