Cơ sở lý luận nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số
Cơ sở lý luận nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Cơ sở lý luận nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số. Nếu các bạn cần thêm bài mẫu khóa luận, luận văn thạc sĩ hay tài liệu tham khảo thì liên hệ với dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ quản trị trị kinh doanh của Trung tâm Luận Văn 3C qua Zalo : 0966.736.325 để được tư vấn chi tiết nhất.
Nội dung chính
1. Các khái niệm liên quan đến nguồn nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động – con người có sức lao động.
Liên Hiệp Quốc cho rằng nguồn lực con người là tất cả những kiến thức kỹ năng và năng lực con người có quan hệ tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày nay, NNL còn bao hàm khía cạnh về số lượng, không chỉ những người trong độ tuổi mà cả những người ngoài độ tuổi lao động (Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh 2009).
Tổ chức ngân hàng thế giới cho rằng NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một hoạt động nào đó. Ở đây NNL được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác nhưng nó có vai trò đặc biệt vì nó được sử dụng để khai thác, duy trì và sử dụng các loại vốn vật chất đó. (Võ Đại Lược,2015)
Tổ chức lao động quốc tế – ILO (2010) quan niệm rằng nhân lực đồng nghĩa với lực lượng lao động. Quan niệm này cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động con người của một quốc gia đã được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Tiềm năng đó bao hàm tổng hoà các năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách con người của một quốc gia đáp ứng với một cơ cấu nhất định của lao động do nền kinh tế đòi hỏi.
Theo David Begg (2008) cho rằng NNL là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích lũy được, nó có thể đem lại thu nhập trong tương lai. Các tác giả này cho rằng kiến thức mà con người tích lũy được trong quá trình lao động sản xuất là mấu chốt vì chính kiến thức đó giúp họ tạo ra của cải, tài sản cho cuộc sống hiện tại và tương lai của chính họ.
Ở nước ta, khái niệm NNL được sử dụng rộng rãi từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, điều này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về NNL.
Theo Phạm Minh Hạc (2001) nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng của con người, trước hết là tiềm năng lao động, bao gồm: thể lực, trí lực, phẩm chất và nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một cơ cấu kinh tế – xã hội nhất định, có thể là một quốc gia, một vùng, một ngành hoặc một tổ chức nhất định trong hiện tại và tương lai.
Quan điểm của Bùi Sỹ Lợi (2002) cũng có nhiều điểm chung với quan điểm của Phạm Minh Hạc khi cho rằng NNL của một quốc gia hay một vùng, một khu vực, một địa phương là tổng hợp những tiềm năng lao động của con người có trong một thời điểm xác định. Tiềm năng đó bao gồm thể lực, trí lực và tâm lực của bộ phận dân số trong độ tuổi quy định đang có việc làm và chưa có việc làm nhưng có khả năng làm việc.
Theo Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến (2004), NNL được hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, NNL là tổng thể tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động) của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương, được chuẩn bị ở một mức độ nào đó, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước (hoặc một vùng, một địa phương cụ thể) trong một thời kỳ nhất định (có thể cho 1 năm, 5 năm, 10 năm…) phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển. Theo nghĩa hẹp, NNL là các tiềm năng của con người được lượng hóa theo một chỉ tiêu nhất định do luật định hoặc chỉ tiêu thống kê căn cứ vào độ tuổi và khả năng lao động, tức là có thể đo, đếm được mà quan trọng nhất trong đó là dân số hoạt động kinh tế thường xuyên (còn gọi là lực lượng lao động). Đó là những người trong độ tuổi lao động theo luật định, có khả năng lao động, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
Từ những sự phân tích trên, ở dạng khái quát nhất, có thể hiểu NNL là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng và chất lượng con người có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Vốn nhân lực (VNL)
NNL chưa phải là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế xã hội. NNL với chất lượng thấp, số lượng đông trong nhiều trường hợp lại trở thành lực cản đối với sự phát triển. Vì vậy, ngày nay người ta quan tâm nhiều đến sự hình thành hoặc đầu tư để nâng cao chất lượng NNL.
Nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith (1776) là người đầu tiên đưa ra khái niệm về VNL: sự tích lũy những tài năng trong quá trình học tập, nghiên cứu hoặc học việc thường đòi hỏi chi phí. Đó là tư bản cố định đã kết tinh trong con người. Những tài năng đó tạo thành một phần tài sản của anh ta và của xã hội.
Theo Alfred Marshall (1890): chúng ta thường định nghĩa tài sản của cá nhân trước hết bao gồm năng lượng, năng lực và tài năng trực tiếp tạo hiệu quả sản xuất công nghiệp, những thứ đó được coi là tài sản, là tư bản.
Các phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn trong kinh tế lao động xem VNL là một tập hợp các kỹ năng hay đặc điểm làm tăng năng suất của người lao động. Đây là một điểm khởi đầu hữu ích, và cho hầu hết các mục đích thực tiễn là khá đầy đủ. Tuy nhiên, nó có thể hữu ích để phân biệt giữa một số cách nghĩ bổ sung/ thay thế về VNL. Dưới đây là một số quan điểm (Acemoglu và Autor 2011).
Quan điểm của Becker (2011), VNL trực tiếp hữu ích trong quá trình sản xuất. Một cách rõ ràng hơn, VNL làm tăng năng suất của người lao động trong tất cả các nhiệm vụ, mặc dù có thể theo những kiểu khác nhau trong những nhiệm vụ, tổ chức, hay trong những tình huống khác nhau. Theo quan điểm này, mặc dù vai trò của NNL trong quá trình sản xuất có thể khá phức tạp, có một ý nghĩa mà chúng ta có thể nghĩ về nó như được đại diện (có thể biểu diễn) bằng một đối tượng đơn chiều, chẳng hạn như vốn kiến thức hoặc kỹ năng, và vốn này là một phần trực tiếp của hàm sản xuất.
Quan điểm Gardener: chúng ta không nên xem VNL là đơn chiều, bởi kỹ năng có rất nhiều chiều hoặc loại. Một phiên bản đơn giản của phương pháp này nhấn mạnh năng lực tinh thần so với năng lực thể chất như những kỹ năng khác nhau. Quan điểm này được đặt tên là Gardener sau công trình nghiên cứu của nhà tâm lý học xã hội Howard Gardener (2010), người đã đóng góp cho sự phát triển của thuyết đa trí tuệ, đặc biệt nhấn mạnh có rất nhiều thiên tài, người nổi tiếng đã rất “kém cỏi” trong một số chiều khác.
Quan điểm Schultz, Nelson- Phelps (2010), VNL được xem chủ yếu là khả năng thích ứng. Theo phương pháp tiếp cận này, VNL đặc biệt hữu ích trong việc đối phó với các tình huống “mất cân bằng”, hay rộng hơn, với các tình huống trong đó có sự thay đổi môi trường, và người lao động phải thích ứng với điều này .
Quan điểm Bowles, Gintis (2011), VNL là khả năng làm việc trong các tổ chức, chấp hành mệnh lệnh, tóm lại, thích ứng với cuộc sống trong một xã hội phân cấp tư bản chủ nghĩa. Theo quan điểm này, vai trò chính của trường học là để thấm nhuần trong cá nhân hệ tư tưởng và phương pháp tiếp cận “đúng” đối với cuộc sống.
Quan điểm Spence (2011), Các tiêu chuẩn đánh giá NNL có thể được quan sát thiên về tín hiệu năng lực hơn là các đặc điểm hữu ích một cách độc lập trong quá trình sản xuất.
Còn Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế OECD (2001) định nghĩa rằng VNL là những gì có liên quan đến tri thức, kỹ năng và những thuộc tính tiêu biểu khác của một cá nhân mà nó có ảnh hưởng đến những hoạt động kinh tế.
Do đó, vốn nhân lực xét về mặt cá nhân, thể hiện mặt chất lượng của sức lao động. Xét về mặt xã hội, vốn nhân lực bao gồm số lượng – tiềm năng lao động xã hội (thể hiện thông qua số lượng người lao động) và chất lượng – tính năng động xã hội của NNL, đó là khả năng sáng tạo, khả năng thích ứng, năng lực, phẩm chất… của NNL. Vốn nhân lực là động lực trực tiếp của tăng trưởng kinh tế.
2. Khái niệm và đặc trưng của chuyển đổi số
Trong những năm gần đây, thuật ngữ ‘chuyển đổi số’ được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới và trong nước. Tuy nhiên, do mức độ ảnh hưởng cũng như cách tiếp cận và phạm vi trải rộng của chuyển đổi số trên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội nên có khá nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số và hiện chưa có một định nghĩa chung, thống về chuyển đổi số. Theo Tech Republic (Tạp chí trực tuyến của cộng đồng xã hội dành cho các chuyên gia CNTT), chuyển đổi số được định nghĩa là “cách sử dụng công nghệ để thực hiện lại quy trình sao cho hiệu quả hơn”. Còn theo Gartner thì “chuyển đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới”. Trong khi đó, Microsoft đưa ra khái niệm chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới”. Ở trong nước, Bộ Thông tin và truyền thông định nghĩa “chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của các cá nhân và tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất trên môi trường số với các công nghệ số”. Ở khía cạnh kinh doanh, FPT cho rằng “chuyển đổi số là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty”.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì chuyển đổi số (digital transformation) là quá trình con người sử dụng dữ liệu và các công nghệ số để thay đổi phương thức phát triển, thay đổi toàn diện cách sống và cách làm việc của con người và tổ chức. Dù cách diễn đạt của các định nghĩa chuyển đổi số có khác nhau nhưng đều xuất hiện những thành tố quan trọng của chuyển đổi số, đó là công nghệ, môi trường số và giá trị mới được tạo ra. Trong đó, yếu tố công nghệ được coi là mắt xích quan trọng nhất để kết nối và định hình hai yếu tố còn lại. Chuyển đổi số, theo cách hiểu đơn giản hơn, đó là sự phát triển tiếp theo của ứng dụng công nghệ thông tin với sự trợ giúp của một số công nghệ mang tính đột phá của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nội hàm của công nghệ trong chuyển đổi số là ứng dụng, nghiên cứu phát triển, sáng tạo, làm chủ công nghệ lõi, công nghệ ứng dụng, những công nghệ có vai trò then chốt, quyết định nhằm tạo ra các giá trị mới. Tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đưa ra quan điểm về chuyển đổi số là “một cơ quan, tổ chức có thể tiến hành chuyển đổi số ngay thông qua việc sử dụng nguồn lực, hệ thống kỹ thuật sẵn có để số hóa toàn bộ tài sản thông tin của mình, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức và chuyển đổi các mối quan hệ từ truyền thống sang môi trường số”.
Cần phân biệt khái niệm chuyển đổi số với các khái niệm về số hóa và khai thác số. Thực tế số hoá (digitization) và (khai thác cơ hội số) digitalization chỉ là một phần quá trình của chuyển đổi số (digital transformation). Số hóa là thuật ngữ dùng để mô tả việc chuyển đổi các tài liệu dạng vật lý (giấy) sang định dạng số. Bằng cách thực hiện số hóa, các tổ chức và doanh nghiệp cho phép đưa nội dung số hóa vào quy trình làm việc của tổ chức. Chẳng hạn như để tự động hóa các quy trình hoặc cung cấp cho mọi người quyền truy cập thông tin. Khai thác cơ hội số (Digitalization) được xem là một bước tiến của số hóa (digitization), còn được gọi là “số hóa quá trình”, “số hóa tổ chức” hay “số hóa doanh nghiệp”, là cấp độ dùng các công nghệ số và dữ liệu đã được số hóa trước đó và sử dụng nó để tối ưu hóa hoạt động kinh doanh. Từ đó, đạt được các mục tiêu như tăng doanh thu của công ty hoặc nâng cao hiệu quả của các quy trình (như truy cập và lưu thông tài liệu). Mục tiêu của số hóa là làm cho công việc hiệu quả hơn, mang lại lợi nhuận cao hơn và mang tính cộng tác. Theo Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và truyền thông thì số hóa là việc biến đổi các giá trị thực sang dạng số, còn chuyển đổi số là khi đã có dữ liệu được số hóa rồi, chúng ta sử dụng các công nghệ như AI, Bigdata .v.v. để phân tích dữ liệu và biến đổi nó để tạo ra giá trị mới.
Về phương diện kỹ thuật, chuyển đổi số được thực hiện tuần tự từ thấp lên cao theo ba giai đoạn: i) Giai đoạn số hóa thông tin: đây là bước đầu của quá trình chuyển đổi số, là điều kiện cần để ứng dụng số hóa. Trong giai đoạn số hóa thông tin, các văn bản dữ liệu giấy được số hoá và lưu trữ, xử lý trên máy tính. ii) Giai đoạn số hoá quy trình: số hoá từng chức năng theo chiều dọc, hay còn gọi là ứng dụng công nghệ thông tin, đây là giai đoạn sử dụng các phần mềm trong quản trị. iii) Giai đoạn chuyển đổi số: đây là giai đoạn số hoá tổ chức, là số hoá theo chiều ngang, đưa toàn bộ hoạt động của tổ chức lên môi trường số, làm thay đổi cách vận hành của tổ chức. Chuyển đổi số đang trở thành xu thế khách quan trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, không một quốc gia nào đứng ngoài chuyển đổi số nên đây là cơ hội rất tốt để các nước không có truyền thống phát triển công nghiệp có thể đi tắt, đón đầu bắt kịp xu thế phát triển của thế giới.
Như vậy, từ các phân tích một số thuật ngữ, khái niệm liên quan tới chuyển đổi số nêu trên có thể rút ra một số đặc trưng chủ yếu của chuyển đổi số như sau:
Thứ nhất, chuyển đổi số thường liên quan đến một tổ chức, có thể là doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, đoàn thể.
Thứ hai, chuyển đổi số hướng vào sử dụng, tận dụng sẵn có nguồn lực, công nghệ, hệ thống kỹ thuật sẵn có (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud) v.v. để thay đổi phương thức quản lý truyền thống sang (văn bản giấy tờ, thủ công,v.v…) sang môi trường số.
Thứ ba, chuyển đổi số bao giờ cũng tạo ra giá trị mới, tạo ra những cơ hội tiếp cận, cắt giảm chi phí vận hành, giúp lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời.
Tại Hội nghị về chuyển đổi số toàn cầu 2018, các đại biểu tham dự đều nhất trí có ba điều cần phải làm khi thực hiện chuyển đổi số, đó là: i) chuyển đổi về tư duy và sẵn sàng về phương diện lãnh đạo, chỉ khi người lãnh đạo cần hiểu mình muốn gì và công nghệ có thể chuyển đổi công ty của mình thế nào; ii) chuyển đổi về bộ máy và sẵn sàng về phương diện tổ chức. Chuyển đổi số cần có sự tham gia của cả tổ chức để làm nên sự chuyển đổi, trong đó một nội dung quan trọng là cần đào tạo và phát triển nhân sự sẵn sàng cho chuyển đổi số; iii) chuyển đổi và sẵn sàng về phương diện công nghệ. Chuyển đổi về công nghệ cần được phát triển song song với yếu tố nhân sự để cùng góp phần thực hiện thành công chuyển đổi số tại tổ chức, doanh nghiệp. Như vậy, mặc dầu yếu tố công nghệ là quan trọng trong chuyển đổi số nhưng công nghệ chỉ tạo nền tảng và là sự gợi ý còn con người nhận biết, nắm bắt, tích hợp và sử dụng, khai thác các công nghệ vào vận hành của tổ chức, doanh nghiệp mới làm cho chuyển đổi số trở thành hiện thực.
Quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, tại Việt Nam, chuyển đổi số đã được Đảng, Nhà nước sớm nhận thức có tầm quan trọng và đã được thể hiện rõ chủ trương, đường lối tại Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Ban Chấp Chấp hành Trung ương về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Trên cơ sở đó, ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030 với tầm nhìn đến năm 2030, trong đó xác định rõ Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp với mục tiêu cơ bản là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu.
3. Vai trò và đặc trưng của nguồn nhân lực trong chuyển đổi số
3.1. Vai trò của nguồn nhân lực trong chuyển đổi số
Chuyển đổi số là kết quả và cũng là thể hiện nét đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Điểm khác biệt của chuyển đổi số so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước là mặc dù đều dựa trên nền tảng kỹ thuật và công nghệ, nhưng chuyển đổi số trong cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã đưa con người thực sự trở lại vị trí trung tâm của sự đổi mới, tri thức trở thành thống trị. Trong chuyển đổi số, tiếp theo bước chuyển hoá thông tin thành dữ liệu dạng số (giai đoạn số hoá – digitization), bằng cách áp dụng công nghệ số như Internet vạn vật (IOT), điện toán đám mây (Cloud), dữ liệu lớn (Big data), trí tuệ nhân tạo (IT), chuỗi khối (Blockchain),… chuyển đổi số cho phép kết nối các thực thể trên thế giới thực con người đang sống bằng việc kết nối chúng (dưới dạng phiên bản số) trên không gian số. Thông qua chuyển đổi số, con người làm cho các dữ liệu thông tin dạng số và sự liên kết trên môi trường số đó trở nên hữu ích và có sức sáng tạo hơn, qua đó làm thay đổi phương thức phát triển và thay đổi cách thức làm việc của người lao động trong xã hội cũng như cách thức và phương thức tổ chức lao động. Bản chất của cách mạng công nghiệp 4.0 là sản xuất thông minh nhờ vào tiến bộ của công nghệ số trong hai thế giới kết nối với nhau trong đó thế giới con người đang và sẽ sống, đó là thế giới các thực thể và thế giới các phiên bản số của các thực thể (thế giới số). Chuyển đổi số là quá trình là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Như vậy có thể thấy, nội dung của chuyển đổi số là rất rộng và đa dạng, nhưng có chung một số nội dung chính gồm chính phủ số (như dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở…), kinh tế số (như tài chính số, thương mại điện tử,v.v…), xã hội số (như giáo dục, y tế, văn hóa,v.v…).
Mọi tiến trình chuyển đổi số trong tổ chức hay doanh nghiệp đều liên quan và phụ thuộc vào những người tham gia hoạt động trong tổ chức hay doanh nghiệp để tạo thành chuỗi giá trị. Yêu cầu để được tham gia vào quá trình chuyển đổi số của tổ chức, doanh nghiệp là người lao động cần được đào tạo kiến thức về kỹ năng số ít nhất ở mức độ cơ bản và tùy từng vị trí trong chuỗi giá trị đó mà có các yêu cầu về kỹ năng khác nhau. Các kỹ năng số cơ bản bao gồm kỹ năng về công nghệ (ứng dụng công nghệ số) và kỹ năng quản trị (tự quản trị mình và quản trị tổ chức) phù hợp với yêu cầu và trình độ của chuyển đổi số. Mặc dầu cả cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số bắt nguồn từ công nghệ, nhưng trong số các yếu tố quyết định cho thành công gồm yếu tố con người, yếu tố thể chế và yếu tố công nghệ thì đối với chuyển đổi số thì yếu tố con người là yếu tố mang tính chất tiên quyết và quyết định bởi nếu không có thay đổi trong tư duy và nhận thức của con người thì không thể có chuyển đổi số.
3. 2. Đặc trưng của nguồn nhân lực trong chuyển đổi số
Trong mỗi một phương thức sản xuất xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, mỗi nền kinh tế đều đòi hỏi một lực lượng sản xuất tương ứng và đồng bộ về trình độ của nó, đặc biệt là nguồn nhân lực. Nói cách khác, tương ứng với kinh tế số phải có nguồn nhân lực số để để triển khai, tổ chức thực hiện và vận hành nó. Nền kinh tế số cùng với chính phủ số và xã hội số đã tạo nên ba trụ cột của chuyển đổi số. Để triển khai, vận hành nền kinh tế số này cần có nguồn nhân lực số. Nguồn nhân lực số chính là tổng hợp về số lượng và chất lượng con người với tổng hòa các tiêu chí về thể lực, trí lực, tinh thần và phẩm chất đạo đức tạo nên năng lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số để huy động cho quá trình lao động sáng tạo. Do nền kinh tế số được xây dựng dựa trên các ứng dụng công nghệ số, phát triển dựa trên nền tảng tài nguyên tri thức, nên đòi hỏi nguồn nhân lực được đào tạo một cách bài bản có trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực; có trình độ học vấn và đạo đức nhân văn, có năng lực làm chủ công nghệ và có tính sáng tạo và khả năng thích nghi nhanh với những biến đổi nhanh chóng của công nghệ. Người lao động trong nền kinh tế số, với sự phát triển của khoa học công nghệ như hiện nay thì học một lần không đủ để làm việc cả đời; trái lại, cả đời người lao động cần liên tục cập nhật nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số. Xuất phát từ các đặc điểm đó, lao động trong chuyển đổi số có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, có đủ năng lực chuyên môn để làm chủ các thiết bị công nghệ số trong quá trình tương tác các hoạt động trong môi trường chuyển đổi số. Đây là điều kiện cần để người lao động tham gia vào quá trình chuyển đổi số tại các tổ chức, doanh nghiệp vì chỉ khi người lao động được trang bị đủ các kiến thức và kỹ năng để sử dụng các thiết bị công nghệ thì mới chủ động phát huy được vai trò của mình trong các mối liên kết, không làm gián đoạn hoặc đứt gãy sự vận hành liên tục của chuỗi giá trị trong chuyển đổi số.
Thứ hai, có khả năng thích nghi nhanh trong môi trường lao động số và với các tiến bộ mới của khoa học công nghệ. Do các tiến bộ của khoa học công nghệ là liên tục và không ngừng phát triển với tốc độ ngày càng nhanh, chu kỳ công nghệ ngày càng được rút ngắn nhất là trong thời đại công nghệ số, vì thế chuyển đổi số cũng là một quá trình liên tục và không ngừng nghỉ, có điểm bắt đầu nhưng không xác định được điểm kết thúc, hướng tới mục tiêu cải tiến không ngừng và ngày càng hoàn thiện về quy trình, đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, thúc đẩy và khuyến khích mọi năng lực sáng tạo. Vì vậy người lao động trong guồng máy đổi mới đó phải nhanh chóng nắm bắt, nhanh chóng thích nghi với sự đổi mới để đồng hành cùng với vận động của cả hệ thống trong nền kinh tế.
Thứ ba, có tác phong lao động kỷ luật và đề cao tính tuân thủ. Trong nền kinh tế số, công nghệ số tạo ra các nền tảng. Khi mọi người đều làm việc trên một nền tảng số thì các quy trình và quy định làm việc đối với người lao động đều đã được tích hợp vào trong nền tảng đó, vì thế nếu như tách ra khỏi nền tảng thì không làm việc được. Khi có thay đổi mới hoặc có quy trình mới thì chỉ cần cập nhật vào trong nền tảng để mọi người lao động làm việc trên cùng một nền tảng đều có thể biết và vận hành và cũng bởi nếu như một ai đó nếu không làm theo quy trình mới thì máy tính sẽ không chạy. Điều này đặt ra yêu cầu và cũng là đặc trưng của lao động làm việc trong chuyển đổi số là vừa xác lập một cơ chế làm việc theo nguyên tắc tuân thủ đồng thời hình thành đội ngũ người lao động tập thể theo quy trình được xác lập trước.
Thứ tư, có đạo đức và tác phong kỷ luật trong lao động. Mặc dầu chuyển đổi số được bắt đầu từ những đột phá công nghệ số, nhưng chuyển đổi số không phải chỉ là công nghệ số, mà là quá trình chấp nhận cái mới, là cuộc cách mạng về tư duy, về đổi mới nhận thức, về đổi mới thể chế và đổi mới chính sách chứ không chỉ đơn thuần là một cuộc cách mạng về công nghệ. Chuyển đổi số là quá trình thay đổi toàn diện công nghệ nền tảng, bao gồm: i) công nghệ kỹ thuật; ii) công nghệ quản trị và iii) công nghệ giáo dục. Quá trình đó yêu cầu người lao động phải đáp ứng về tính tuân thủ, tính tập thể, tính sáng tạo trong môi trường làm việc chuyển đổi số, qua đó hình thành nét đẹp văn hoá, đạo đức và tác phong cần có của người lao động trong bối cảnh mới. Để đạt được năng suất và chất lượng cao trong công việc, người lao động cần nắm vững không chỉ công nghệ kỹ thuật mà còn làm chỉ công nghệ quản trị. Một khi người lao động tích lũy được cả hai công nghệ này trong quá trình học tập rèn luyện thì có thể làm ra hoặc tham gia vào các công đoạn để làm ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có giá trị vượt trội. Chính cơ chế vận hành của tổ chức, doanh nghiệp chuyển đổi số cũng tham gia vào hình thành nên những người lao động biết tự quản trị, biết thích nghi, khát vọng sáng tạo và hướng tới những giá trị tốt đẹp của tập thể, của cộng đồng.
Thứ năm, có sáng tạo trong công việc và có khả năng tư duy đột phá. Nếu như việc có đủ năng lực chuyên môn để làm chủ các thiết bị công nghệ số là điều kiện cần thì việc có khả năng tư duy đột phá, sáng tạo trong công việc là điều kiện đủ và là tiêu chí đặc trưng nhất của nguồn nhân lực số. Tuân thủ quy trình dựa trên nền tảng số nhưng điều đó không thủ tiêu tính chủ động và năng lực sáng tạo của người lao động trong công việc. Bản chất của chuyển đổi số là tổ chức làm việc thông minh nhờ vào tiến bộ của công nghệ số trong hai thế giới kết nối với nhau (thế giới các thực thể và thế giới các phiên bản số của các thực thể – thế giới số). Thông qua thế giới số người lao động có thể nhìn nhận thế giới thực thể đầy đủ hơn, bao quát hơn, phân tích để nhận diện về thế giới thực thể sâu hơn và truyền cho con người cảm hứng sáng tạo. Đây là quá trính trình tương tác để phát triển không ngừng trong chuyển đổi số.
4. Xu hướng nguồn nhân lực trong chuyển đổi số
4.1. Xu hướng chung của lao động trong chuyển đổi số
Quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới cùng với các tiến bộ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay đổi lớn về cơ cấu lao động và thị trường lao động, xu hướng chung là thu hẹp tỷ trọng lao động giản đơn và gia tăng tỷ trọng lao động chất lượng cao, có kỹ năng. Trong quá trình này, các hệ thống tự động hóa sẽ thay thế dần cho lao động thủ công, dẫn tới sự dịch chuyển thay thế từ công nhân sang máy móc tăng lên. Tỷ trọng lao động có chất lượng cao sẽ gia tăng đáp ứng nhu cầu phát triển công nghệ trong sản xuất, dẫn tới phân hóa mạnh giữa hai phân khúc trong thị trường lao động là thị trường lao động kỹ năng cao và thị trường lao động kỹ năng đơn giản; tạo ra nhu cầu và cơ hội việc làm hoàn toàn mới so với trước đây nhưng cũng tạo ra những thách thức đối với lao động trong một số lĩnh vực truyền thống bị cạnh tranh bởi chuyển đổi số. (Frey,C.B. and M.A. Osborne, 2015).
Tuy nhiên, mức độ và tốc độ ảnh hưởng tới lực lượng lao động tại các nước và khu vực không giống nhau, phụ thuộc vào mức độ ứng dụng và triển khai các công nghệ tiên tiến mang tính đột phá về việc làm. Ví dụ, tại Mỹ trong vòng 15-20 năm tới tự động hóa có thể gây rủi ro cho 47% số việc làm (Frey,C.B. and M.A. Osborne, 2015). Trong khi đó tại các nước OECD, có khoảng 9% việc làm hiện nay có nguy cơ bị thay thế hoàn toàn bởi tự động hóa (Melanie Arntz, Terry Gregory, Ulrich Zierahn, 2016). Tại Anh, theo Đại học Oxford, trong vòng 20 năm tới ước tính có tới 47% công việc hiện nay sẽ được tự động hóa ở mức 75% trở lên, lao động bị thay thế chủ yếu là những người làm các công việc có thu nhập trung bình và văn phòng thường ngày không đòi hỏi trình độ kỹ thuật. Trong khi đó tại một số nước ASEAN (Campuchia, Philipin, Inđônêxia, Thái lan và Việt Nam) cho thấy thời đại sử dụng công nghệ tự động hóa trong sản xuất đã thực sự bắt đầu và đã trở thành một thực tế tại tại một số lĩnh vực như sản xuất và lắp ráp ô tô; điện và điện tử; dệt may và giầy da; kinh doanh thuê ngoài và bán lẻ (ILO, 2016). Một điều đáng lưu ý được các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng 4.0 và chuyển đổi số không chỉ đe dọa việc làm và an sinh xã hội của những lao động trình độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung (trung cấp, cao đẳng) cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới – kỹ năng sáng tạo phù hợp.
Đối với Việt Nam cho thấy trong 10 năm tới theo ILO/ADB thì có tới 70% số việc làm hiện tại sẽ gặp rủi ro cao, 18% có rủi ro trung bình và 12% có rủi ro thấp (ILO/ADB, 2020). Lao động bị ảnh hưởng nhiều nhất là trong những ngành nghề liên quan đến lao động giản đơn, thâm dụng nhiều lao động như nông nghiệp, dệt may, lắp ráp, thủ công.v.v… đây đang là những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động của nước ta hiện nay (khoảng 68% lực lượng lao động) và cũng sẽ chiếm tỷ lệ thất nghiệp lớn trong tổng số lao động thất nghiệp của thị trường lao động. Như vậy, nhu cầu đào tạo, đào tạo lại để đáp ứng cho đối tượng này là rất lớn trong thời gian tới. Việc đào tạo, đào tạo lại cho người lao động làm việc trong lĩnh vực này sẽ diễn ra theo 2 xu hướng: (i) Đào tạo, đào tạo lại trong cùng lĩnh vực ngành nghề đó nhưng theo hướng tiếp cận công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số như chuyển từ lĩnh vực nông nghiệp sang nông nghiệp công nghệ cao; từ lĩnh vực dệt may thủ công sang lĩnh vực dệt may công nghiệp.v.v…; (ii) Đào tạo, đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp do nghề cũ bị mất đi như chuyển lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp hoặc dịch vụ; từ lĩnh vực công nghiệp sang lĩnh vực điều khiển, tự động hóa.v.v…
4.2. Xu hướng chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực
Trong lĩnh vực y tế
Chuyển đổi số y tế, hay y tế số, là sự phát triển tiếp theo của y tế điện tử, nhưng có tính đột phá. Nếu như y tế điện tử sử dụng CNTT-TT và trọng tâm là nâng cao hiệu quả của các nhà cung cấp dịch vụ y tế, nhưng cách thức vận hành cơ bản vẫn như cũ, thì y tế số sử dụng công nghệ số là chính và trọng tâm là tập trung vào người bệnh, thay đổi mô hình, cách thức cung cấp dịch vụ y tế. Bệnh nhân sẽ trở thành khách hàng. Dữ liệu y tế vốn bị bỏ quên trở thành tài sản lớn nhất, tạo ra sự khác biệt lớn nhất trong chăm sóc sức khoẻ.
Trí tuệ nhân tạo hỗ trợ việc phân loại và khám lâm sàng: Trong bối cảnh gánh nặng toàn cầu về chăm sóc y tế ngày càng tăng, đòi hỏi cần có các giải pháp không chỉ là phi tập trung hóa các dịch vụ mà còn nhằm đáp ứng sự thiếu hụt ngày càng tăng của nhân viên chăm sóc y tế bằng cách mở rộng và tăng cường năng lực của các dịch vụ hiện có. Một trong những giải pháp đó là ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để hỗ trợ phân loại các bệnh nhân và có hướng chăm sóc lâm sàng thích hợp.
Giám sát sức khỏe tại nhà (Home monitoring): Một ứng dụng số khác trong chăm sóc sức khỏe đó là giám sát sức khỏe tại nhà bằng việc ứng dụng các giải pháp công nghệ IoT. Bệnh nhân có thể truy cập các thiết bị IoT và ứng dụng điện thoại di động để theo dõi tại nhà và phát hiện sớm nguy cơ bệnh, đặc biệt là người già cần được theo dõi định kỳ và người thân của họ cần được thông báo về tình trạng sức khỏe của họ trong thời gian làm việc.
Các công nghệ mới khác: Việc ứng dụng và phát triển các giải pháp kỹ thuật số (telehealth, AI và IoT) trong y tế yêu cầu cơ sở hạ tầng tương ứng để đáp ứng việc thu thập và truyền dữ liệu chăm sóc sức khỏe, tạo ra những thách thức về băng thông và an ninh mạng. Từ nhu cầu này, mạng 5G và chuỗi khối (blockchain) có vai trò ngày càng tăng trong thời gian tới. Mạng 5G có thể là động lực chính cho việc phát triển chăm sóc sức khỏe số thông qua việc cải thiện băng thông và độ ổn định của mạng, khắc phục những hạn chế của mạng điện thoại di động hiện tại (3G và 4G).
Trong lĩnh vực giáo dục
Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục là việc chuyển đổi cách dạy, cách học, quản trị và quản lý giáo dục dựa trên công nghệ số hướng tới một hệ thống giáo dục chất lượng tốt, chi phí thấp và tiếp cận dễ dàng với mọi người dân25. Chuyển đổi số trong giáo dục được xem là quá trình tích hợp và áp dụng các công nghệ kỹ thuật số như dữ liệu lớn, điện toán đám mây, vạn vật kết nối, trí tuệ nhân tạo vào các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, các cơ sở giáo dục, tận dụng các công nghệ số thay đổi tích cực cách thức quản lý, làm việc của cá nhân, đơn vị trong hoạt động giáo dục cũng như cung cấp điều kiện giáo dục thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả trên nền tảng số.
Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng
Chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng được thực hiện thông qua việc ứng dụng các công nghệ mới – thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 và các thể hiện ở những thay đổi về: (i) Khả năng kết nối giữa con người và máy móc: Nhấn mạnh vai trò và khả năng thông minh của máy móc. Theo đó, mối quan hệ giữa con người và máy móc là mối quan hệ cộng tác thay vì quá trình điều khiển đơn thuần. Việc cộng tác được thực hiện dựa trên công nghệ Internet vạn vật (IOT); (ii) Quy trình sản xuất thông minh: Thời gian sản xuất, xử lý công việc được rút ngắn nhờ quy trình sản xuất thông minh, cho phép các vấn đề phát sinh được giải quyết ngay tức thì và loại bỏ hoặc giảm thiểu các chi phí; Trí thông minh nhân tạo (AI), điện toán đám mây (Cloud), sổ cái phân toán (blockchain), công nghệ tài chính (fintech),… là xu thế ứng dụng của lĩnh vực tài chính ngân hàng và đã biến đổi ngành dịch vụ tài chính trong những năm gần đây, thúc đẩy tài chính toàn diện và phổ biến ngân hàng số trên toàn thế giới.
Trong lĩnh vực vận tải và logistics
Về ứng dụng công nghệ mới, cùng với sự phát triển bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0, nhiều công nghệ mới đang được áp dụng vào hoạt động Logistics như: E-Logistics, Green Logistics, Big Data. Sự tích hợp trí tuệ nhân tạo với mạng lưới kết nối Internet vạn vật (IoT) và các công cụ hiện đại hóa đang bắt đầu thay đổi những dịch vụ kho bãi và phân phối hàng hóa vốn tốn nhiều công sức. Trong lĩnh vực số hóa, Internet of Things (IoT) giữ một vị trí nổi bật như một giải pháp công nghệ mang tính ứng dụng cao trong lĩnh vực Logistics. IoT giúp các công ty giám sát hàng tồn kho, quản lý kho hàng, tối ưu hóa các tuyến tàu.
Bài viết Cơ sở lý luận nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số được Luận Văn 3C tổng hợp để hỗ trợ các bạn dùng tham khảo khi viết bài, nếu bạn cần hỗ trợ bạn có thế liên hệ và sử dụng dịch vụ hỗ trợ luận văn của chúng tôi để được tư vấn hỗ trợ tốt nhất!
Tôi là Nguyễn Đình Long, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 3C– Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Website: https://luanvan3c.com/ – Hotline: 0966.736.325.
GẶP TƯ VẤN VIÊN
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học duy vật và triết học duy tâm ở Hy Lạp thời cổ đại đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quy luật mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới ở Việt Nam đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Luận văn 3C cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên, nếu như các bạn muốn […]
Bình chọn Bài viết chia sẻ Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Xây dựng và phát triển thương hiệu dịch vụ bảo vệ Thịnh An cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận văn thạc sĩ với sự chia […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Tác động của cấu trúc sở hữu, quản trị doanh nghiệp tới hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành công nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam cho các bạn học viên đang làm […]
Bình chọn Các công cụ đánh giá văn hóa doanh nghiệp giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Các công cụ đánh giá văn hóa doanh […]
Bình chọn Các mô hình văn hóa doanh nghiệp giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Các mô hình văn hóa doanh nghiệp. Nếu các bạn cần […]
Bình chọn Cấu trúc của văn hóa doanh nghiệp giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Cấu trúc của văn hóa doanh nghiệp. Nếu các bạn cần […]
Bình chọn Nội dung của văn hóa doanh nghiệp giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Nội dung của văn hóa doanh nghiệp. Nếu các bạn cần […]
Bình chọn Khái niệm văn hóa và văn hóa doanh nghiệp giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành quản trị kinh doanh đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Khái niệm văn hóa và văn hóa doanh […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Phát triển văn hóa doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận văn thạc sĩ […]