Các loại thuế cơ bản đối với hộ kinh doanh
Các loại thuế cơ bản đối với hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Các loại thuế cơ bản đối với hộ kinh doanh Nếu các bạn cần thêm bài mẫu khóa luận, luận văn thạc sĩ hay tài liệu tham khảo thì liên hệ với dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ luật kinh tế của Trung tâm Luận Văn 3C qua Zalo : 0966.736.325 để được tư vấn chi tiết nhất.
1. Thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT “có nguồn gốc từ thuế doanh thu và Pháp là nước đầu tiên trên thế giới ban hành Luật thuế giá trị gia tăng – vào năm 1954. Thuế GTGT được một nhà kinh tế học người Pháp là Maurice Lauré nghĩ ra”11. Khai sinh từ nước Pháp, hiện nay thuế GTGT đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.
Luật thuế GTGT lần đầu tiên được Quốc hội ban hành vào năm 1997, tại kỳ họp lần thứ 11, Quốc hội khoá 9, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1999 thay thế Luật doanh thu được ban hành trước đó. Với mục đích và nhiệm vụ chính là:
“Góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hóa và dịch vụ, khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách Nhà nước”12.
Thuế GTGT được định nghĩa là “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”13. Đối tượng phải chịu thuế là “Hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng” trừ một số trường hợp không chịu thuế do luật quy định. Trong đó, đối tượng nộp thuế là các tổ chức, cá nhân SXKD hàng hóa, dịch vụ chịu thuế, HKD cũng là đối tượng phải nộp thuế GTGT.
Theo quy định thuế GTGT hiện hành, có ba loại thuế suất thuế GTGT: 0%, 5% và 10%.
Đến nay, luật thuế GTGT đã có nhiều thay đổi, cho phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế, và tiệm cận hơn với quy định pháp luật quốc tế.
Thuế GTGT có vai trò rất quan trọng, đóng góp phần lớn cho NSNN. Tỷ trọng thu từ thuế GTGT (trừ hoàn) chiếm 24,4% trong tổng thu NSNN giai đoạn 2011 đến năm 2020, trong đó, thu thuế GTGT từ sản xuất, tiêu dùng trong nước chiếm 17% tổng thu NSNN14. Thuế GTGT có tác dụng điều tiết thu nhập của tổ chức, cá nhân tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng. Áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 0% để khuyến khích cho xuất khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu không những không phải chịu thuế GTGT ở khâu xuất khẩu mà còn được hoàn số thuế đầu vào đã thu ở khâu trước. Điều này giúp giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh về giá của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Quy định về khấu trừ thuế GTGT đã thúc đẩy thực hiện chế độ hạch toán kế toán; sử dụng hoá đơn, chứng từ và thanh toán qua tài khoản ngân hàng, minh bạch hóa hoạt động SXKD, tránh gian lận, trốn thuế.
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, đánh vào người tiêu dùng. Người mua là người chịu thuế nhưng không trực tiếp nộp thuế mà do người bán nộp hộ. Theo quy định của Luật thuế GTGT thì thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào NSNN theo mức độ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ.
Đối với HKD, thuế GTGT là một trong những loại thuế quan trọng và chính yếu bên cạnh thuế TNCN. Trước khi luật thuế GTGT, thuế doanh thu được sử dụng để tính thuế đối với HKD. HKD khi thực hiện hoạt động kinh doanh với mong muốn tìm kiếm lợi nhuận, sản phẩm, hàng hóa được tạo ra từ hoạt động kinh doanh chắc chắn xuất hiện sự chênh lệch giá mua, giá bán, tạo ra giá trị tăng thêm hay còn gọi là “giá trị thặng dư”. Do đó việc áp dụng thuế GTGT đối với HKD là hoàn toàn phù hợp.
Khác với mô hình doanh nghiệp, HKD là đối tượng không sử dụng hóa đơn, chứng từ và chế độ kế toán do đó không thể xác định giá trị của hàng hòa mua vào (giá vốn) một cách chính xác, từ đó pháp luật quy định về cách tính thuế đối với HKD đơn giản, dễ hiểu dễ thực hiện hơn đối với doanh nghiệp. Để xác định thuế GTGT đối với HKD thì chỉ cần xác định doanh thu và tỷ lệ để tính thuế (tỷ lệ này được quy định tại các văn bản hướng dẫn cho mỗi nhóm ngành kinh doanh khác nhau).
Thuế GTGT là một loại thuế đặc biệt quan trọng, và khá phức tạp, khi mà trình độ nhận thức pháp luật nâng cao, sự phát triển của kỹ thuật số, công nghệ thông tin hiện đại, đòi hỏi các cơ quan lập pháp, hành pháp cũng phải liên tục nghiên cứu, đổi mới cho phù hợp. Quy định phải theo kịp với tốc độ phát triển, thì yêu cầu pháp luật phải chặt chẽ để tránh việc lợi dụng những khe hở của pháp luật để thực hiện hành vi lách luật.
Hiện nay, việc xác định đúng doanh thu để tính thuế GTGT đối với HKD còn phải căn cứ đựa trên nhiều yếu tố khách quan, lẫn chủ quan. Vẫn còn nhiều nguồn thu đang bị thất thoát, mức thuế chưa tương xứng với quy mô, thực tế SXKD.
Thuế GTGT được đánh giá là sắc thuế ổn định, ít biến động, so với những loại thuế khác. Hiện tại vẫn áp dụng Luật thuế GTGT năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng. Đối với thuế GTGT của HKD, từ năm 1997 đến nay tương đối ổn định trong cách tính thuế, căn cứ để tính thuế GTGT. Điều này giúp công tác quản lý, triển khai, áp dụng luật dễ dàng, thuận tiện, người dân dễ hiểu, dễ thực hiện.
2. Thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần. Loại thuế này đánh vào những khoản thu nhập cao của cá nhân nhằm thực hiện việc điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã hội và tăng nguồn thu cho NSNN.
Thuế TNCN đã có lịch sử hàng trăm năm, đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào năm 1797, sau đó là Anh vào năm 1799, và Phổ vào năm 1808. Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng thuế thu nhập vào năm 1864 trong thời kỳ nội chiến nhưng bị gián đoạn vào năm 1872. Các nước Châu Âu khác, cũng như Úc, New Zealand, và Nhật Bản áp dụng các loại thuế thu nhập thường xuyên vào nửa cuối Thế kỷ 19.
Các nước Châu Á: Thái lan bắt đầu áp dụng năm 1939, Philippiner năm 1945, Hàn quốc năm 1948, Indonesia năm 1949, Trung quốc năm 1984; Các nước Đông Âu mới áp dụng như Rumani năm 1990, Nga năm 1991, Ba lan năm 1992.15
Tại Việt Nam, năm 1990, Nhà nước Việt Nam thông qua Nghị quyết số 270b-NQ/HĐNN8 ngày 30/06/1990 ban hành luật thuế lợi tức với mục đích chính là:
“Để góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và động viên một phần lợi tức của cơ sở kinh doanh cho ngân sách Nhà nước, bảo đảm sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các thành phần kinh tế, kết hợp hài hoà lợi ích của Nhà nước, tập thể và người lao động”.
Trong thời đại hiện nay thì việc quy định thuế đối với hoạt động SXKD của mô hình HKD là thực sự cần thiết. Từ “lợi tức” ở đây theo từ điển Việt Nam có nghĩa là tiền lãi thu được từ việc sản xuất kinh doanh hoặc từ khoản tiền cho vay, gửi ngân hàng. Theo quy định Bộ luật dân sự “lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”16. Trong hoạt động kinh doanh, lợi tức được hiểu là phần tiền lời thu được từ hoạt động SXKD. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận, thì một phần lợi nhuận đó sẽ phải đóng thuế và lúc này gọi là thuế lợi tức. Theo quy định “Căn cứ tính thuế là tổng lợi tức chịu thuế cả năm (không phân biệt hoạt động chính, hoạt động phụ, thường xuyên, không thường xuyên) và thuế suất”.
“Lợi tức chịu thuế bằng tổng số doanh thu trừ (-) các khoản chi phí kinh doanh hợp lệ, hợp lý của cơ sở kinh doanh có liên quan đến lợi tức chịu thuế trong kỳ cộng (+) các khoản lợi tức khác”17.
“Tổng doanh thu để tính lợi tức chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền dịch vụ đã thực hiện, được dùng làm căn cứ tính thuế doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt”18.
Đối với HKD nhỏ, thuế lợi tức được xác định dựa trên doanh thu và thuế suất khoán do nhà nước quy định theo từng nhóm ngành nghề kinh doanh theo quy định tại Điều 11, Luật thuế lợi tức 1990. Ở đây, có thêm khái niệm về HKD nhỏ, căn cứ để xác định HKD nhỏ dựa vào doanh thu bình quân tháng của từng ngành nghề.
Năm 1997, luật thuế TNDN số 57-L/CTN ngày 10/05/1997 có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 bãi bỏ luật thuế lợi tức. Một trong những đối tượng nộp thuế TNDN là cá nhân SXKD hàng hóa, dịch vụ trong đó CNKD bao gồm :
“Hộ cá thể và nhóm kinh doanh; hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp; cá nhân kinh doanh; cá nhân hành nghề độc lập; cá nhân có tài sản cho thuê; cá nhân nước ngoài kinh doanh có thu nhập phát sinh tại Việt Nam”19
Thuế TNDN lúc này thay thế cho thuế lợi tức đã được áp dụng đối với HKD trước đây.
Xét về góc độ tính phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan, HKD không được quy định bởi luật Công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân lúc bấy giờ. Nhưng lại được quy được chỉnh bởi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này gây ra thắc mắc, hiểu lầm cho người dân, từ đó làm giảm tính tuân thủ pháp luật.
Năm 2007, Quốc hội ban hành Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12, trong đó có quy định đối tượng chịu thuế đối với “cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế” và thu nhập từ kinh doanh là một trong những loại thu nhập phải chịu thuế TNCN. Thu nhập từ kinh doanh, bao gồm: Thu nhập từ hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ; Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật20. Căn cứ tính thuế TNCN đối với HKD là thu nhập tính thuế:
“Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công là tổng thu nhập chịu thuế quy định trừ các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, các khoản giảm trừ gia cảnh, các khoản đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học.”21
Theo quy định trên, thuế TNCN đối với HKD được xác định thông qua phần thu nhập chịu thuế sau khi trừ đi các khoản giảm trừ theo quy định. Để xác định thu nhập chịu thuế, pháp luật thuế TNCN quy định :
“Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh được xác định bằng doanh thu tính thu nhập chịu thuế trừ các khoản chi phí hợp lý”22
Để xác định được doanh thu và chi phí hợp lý, HKD phải hạch toán SSKT để theo dõi. Đối với những HKD không hạch toán được doanh thu, chi phí thì luật thuế TNCN quy định:
“Cá nhân kinh doanh chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ, không xác định được doanh thu, chi phí và thu nhập chịu thuế thì cơ quan Thuế có thẩm quyền ấn định doanh thu, tỷ lệ thu nhập chịu thuế để xác định thu nhập chịu thuế phù hợp với từng ngành, nghề sản xuất, kinh doanh”23. “Căn cứ vào kết quả ấn định thu nhập chịu thuế quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan Thuế xác định mức thuế khoán theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục quy định tại Điều 38 của Luật Quản lý Thuế”24.
Như vậy theo Luật thuế TNCN năm 2007, thuế TNCN đối với hoạt động kinh doanh nói chung, áp dụng tương tự như thuế TNCN đối với tiền lương tiền công, tính theo biểu thuế lũy tiến từng phần, mức giảm trừ gia cảnh được áp dụng trong trường hợp này. Cá nhân có thu nhập từ kinh doanh phải khai quyết toán thuế trừ trường hợp cơ quan thuế ấn định số thuế phải nộp theo quy định tại Khoản 5, Điều 30 Nghị định 65/2013/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.
Khi thực hiện luật thuế TNCN cá nhân năm 2007, việc tính thuế TNCN đối với HKD còn một số vướng mắc, khi phải xác định được mức giảm trừ gia cảnh đối với từng HKD, phải quyết toán thuế. Trong khi đó, trình độ nhận thức pháp luật, tính chất đơn giản đối với mô hình này, nguồn nhân lực quản lý không đảm bảo, tốn kém chi phí. Do đó, năm 2014 Quốc hội đã ban hành Luật số 71/2014/QH13 luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về Thuế. Tại Khoản 4, Điều 2 Luật sửa đổi bổ sung quy định về thuế TNCN đối với CNKD “Cá nhân kinh doanh nộp thuế thu nhập cá nhân theo tỷ lệ trên doanh thu đối với từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh”. Như vậy, theo pháp luật hiện hành, doanh thu chính là căn cứ để tính thuế TNCN đối với HKD. Xét về góc độ ngữ nghĩa của từ thu nhập cá nhân, từ nhu nhập ở đây có nghĩa là lợi nhuận còn lại sau khi trừ đi các khoản chi phí sử dụng cho hoạt động kinh doanh, và với tên gọi như vậy rất nhiều người hiểu đon giản rằng, có lời thì mới đóng thuế. Do đó cách tính thuế với tên gọi bản thân chứa đựng sự mâu thuẫn, gây thắc mắc, khó hiểu cho người nộp thuế.
Tóm lại, xét từ góc độ động viên NSNN, thuế TNCN nói chung và thuế TNCN đối với HKD nói riêng là một trong ba sắc thuế quan trọng nhất trong hệ thống thuế của Việt Nam. Trong những năm gần đây kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người ngày càng được nâng cao. Do đó, thuế TNCN ngày càng trở thành một nguồn thu quan trọng cho NSNN.
3. Các loại thuế khác
Ngoài hai loại thuế là thuế GTGT và thuế TNCN nêu trên, nhà nước còn quy định một số loại thuế khác đánh trên một số loại hàng hóa đặc thù, như thuế TTĐB, thuế TN.
Thuế TTĐB là một loại thuế phổ biến ở nước ta do Nhà nước quy định nhằm định hướng sản xuất, tiêu dùng. Tiền thân của thuế TTĐB hiện hành là thuế hàng hóa được ban hành năm 1951. Ðến năm 1990 Bộ tài chính soạn thảo dự án luật thuế mới, đổi thuật ngữ thuế hàng hóa thành thuế TTĐB và được Quốc hội thông qua vào ngày 30/6/ 1990. Sau đó được sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 9 và thông qua ngày 5/7/1993. Ðến tháng 10/1995 Luật thuế TTĐB lại được sửa đổi, bổ sung lần nữa. Ðể phát huy vai trò của luật thuế tiêu thụ đặc biệt trong điều tiết sản xuất, tiêu dùng xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng cho NSNN một cách hợp lý, tăng cường quản lý SXKD đối với một số hàng hóa, dịch vụ; ngày 20/5/1998 Quốc hội đã thông qua Luật thuế TTĐB và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/1999 thay thế Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 và hai đạo luật sửa đổi, bổ sung ban hành năm 1993 và năm 1995.
Sau đó luật số 08/2003/QH11 sửa đổi bổ sung luật thuế TTĐB số 05/1998/QH10. Vào ngày 14/11/2008 quốc hội ban hành luật số 27/2008/QH12 có hiệu lực từ ngày 1/4/2009 thay thế hoàn toàn luật luật 08/2003/QH11 và luật sửa đổi bổ sung 05/1998/QH10. Ngày 26/11/2014 quốc hội lại tiếp tục ban hành luật số 71/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 sửa đổi bổ sung một số điều của luật số 27/2008/QH12.
Theo quy định pháp luật, thuế TTĐB là loại thuế gián thu, đánh vào một số loại hàng hóa, dịch vụ mang tính chất xa xỉ nhằm điều tiết việc sản xuất, nhập khẩu và tiêu dùng xã hội. Đồng thời điều tiết mạnh thu nhập của người tiêu dùng. Góp phần tăng thu cho NSNN, tăng cường quản lý SXKD đối với những hàng hóa, dịch vụ chịu thuế. Tính chất gián thu của thuế TTĐB được thể hiện ở chổ do các cơ sở trực tiếp sản xuất ra hàng hoá đó nộp nhưng người tiêu dùng là người chịu thuế vì thuế được cộng vào giá bán.
Đối tượng chịu thuế TTĐB căn cứ Khoản 2 Luật Thuế TTĐB năm 2008, luật sửa đổi bổ sung năm 2014 và Khoản 2, Nghị định 108/2015/NĐ-CP, quy định các đối tượng chịu thuế bao gồm các loại hàng hóa như: Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai, ngửi, ngậm, rượu, bia, xe ô tô, xe mô tô, vàng mã, hàng mã… và dịch vụ chịu thuế như: kinh danh vũ trường, kinh doanh mát-xa, karaoke, kinh danh casino, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh golf, xổ số…
Người nộp thuế TTĐB là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa, kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB.
Hiện nay, một số HKD cũng chịu thuế TTĐB, như HKD ngành nghề karaoke, mát-xa, vũ trường, sản xuất bia, rượu. Mức thuế đánh trên những mặt hàng này rất cao. Số lượng HKD các ngành nghề chịu thuế TTĐB chiếm tỷ trọng thấp, do bị hạn chế về các quy định pháp luật tron khâu thành lập, chủ yếu là những ngành kinh doanh có điều kiện, mức thuế suất cao, làm giảm lợi nhuận, chi phí đầu tư lớn.
Thuế TTĐB là một trong những công cụ giúp Nhà nước điều tiết sản xuất và tiêu dùng. Do mức thuế suất cao nên sẽ góp phần ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định tiêu dùng. Với mục đích chính là hạn chế việc sản xuất, tiêu dùng những hàng hóa, dịch vụ không có lợi cho nền kinh tế.
Loại thuế tiếp theo, đó là thuế TN. Hiện nay, pháp luật chưa có quy định một cách cụ thể về khái niệm thuế TN. Tuy nhiên, thuế tài nguyên có thể được hiểu là một loại thuế gián thu mà cá nhân, tổ chức phải nộp cho nhà nước khi khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Đối tượng phải chịu thuế TN được quy định tại Điều 2 Luật Thuế tài nguyên 2009 là: Khoáng sản kim loại, Khoáng sản không kim loại, Dầu thô, Khí thiên nhiên, khí than, sản phẩm của rừng tự nhiên, trừ động vật, hải sản tự nhiên, bao gồm động vật và thực vật biển, nước thiên nhiên, bao gồm nước mặt và nước dưới đất, yến sào thiên nhiên, Tài nguyên khác do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
Người nộp thuế TN là tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên.
Căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế và thuế suất theo Điều 4 Luật Thuế tài nguyên 2009.
Theo đó, HKD khi tiến hành hoạt động SXKD có liên quan đến những đối tượng chịu thuế TN nêu trên thì đều phải nộp thuế TN vào NSNN. Do đó, thuế TN cũng góp phần tăng làm nguồn thu, thuế TN là công cụ tài chính quan trọng, giúp Nhà nước thực hiện vai trò và chức năng quản lý đối với hoạt động khai thác và sử dụng TN thiên nhiên.
Hiện nay, số lượng HKD thực hiện nộp thuế TN chiếm tỷ trọng rất ít, do tính đặc thù của đối tượng chịu thuế, do đó mô hình HKD chưa phù hợp đối với việc thực hiện hoạt động đối với những đối tượng này.
Bài viết Các loại thuế cơ bản đối với hộ kinh doanh được Luận Văn 3C tổng hợp để hỗ trợ các bạn dùng tham khảo khi viết bài, nếu bạn cần hỗ trợ bạn có thế liên hệ và sử dụng dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ của chúng tôi để được tư vấn hỗ trợ tốt nhất!
- Website: https://luanvan3c.com/
- Hotline: 0966.736.325 (zalo)
- Email: luanvan3c@gmail.com

Tôi là Nguyễn Đình Long, hiện tại tôi là Quản lý nội dung của Luận Văn 3C– Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn uy tín. Chúng tôi đặt lợi ích của khách hàng là ưu tiên hàng đầu. Website: https://luanvan3c.com/ – Hotline: 0966.736.325.
GẶP TƯ VẤN VIÊN
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố Văn hóa Tổ chức đến chia sẻ tri thức tại VNPT Thành phố Hồ Chí Minh cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Các yếu tố ảnh hưởng đến sự gắn kết của nhân viên với Công ty TNHH Hùng Cá cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên ngành Công nghệ thông tin tại thành phố Hồ Chí Minh cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa doanh nghiệp tại công ty FPT Telecom cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận văn thạc sĩ […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của nhân viên tại công ty TNHH MTV Dịch vụ công ích quận Phú Nhuận, TP.HCM cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của cán bộ công chức tại cục công nghệ thông tin cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Tạo động lực làm việc cho cán bộ nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu rau quả cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận văn thạc sĩ […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh Tạo động lực cho người lao động tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Lixil Việt Nam cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên chuẩn bị làm bài luận văn thạc […]
Bình chọn Phân loại hộ kinh doanh theo quy định pháp luật thuế giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Phân loại hộ kinh doanh theo quy […]
Bình chọn Cơ sở lý luận về pháp luật thuế đối với hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Cơ sở lý luận về […]
Bình chọn Khái quát chung về hộ kinh doanh giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Khái quát chung về hộ kinh doanh Nếu các bạn cần thêm […]
Bình chọn Chuyên mục chia sẻ các đề tài luận văn thạc sĩ luật kinh tế Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch mua bán hàng hóa trên sàn Thương mại điện tử cho các bạn học viên đang làm luận văn tham khảo. Với những học viên […]
Bình chọn Trình tự thủ tục chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Trình tự thủ tục chào bán trái […]
Bình chọn Phương thức tiến hành hoạt động chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Phương thức tiến hành hoạt […]
Bình chọn Điều kiện và nguyên tắc tiến hành hoạt động chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Điều kiện […]
Bình chọn Một số khái quát về hoạt động chào bán trái phiếu ra công chúng giành cho đang sinh viên, học viên cao học theo học ngành luật kinh tế đang hoàn thiện khóa luận, luận văn thạc sĩ. Bài viết này cho các bạn cái nhìn tổng quan về: Một số khái quát […]